Wednesday, December 3, 2008

Nhà báo Nguyễn Việt Chiến được đề cử giải thưởng của RSF

Nhà báo Nguyễn Việt Chiến của Việt Nam được đề cử lãnh giải thưởng của Hội Nhà Báo Không Biên Giới diễn ra ngày thứ Năm ngày 4 tháng 12.

Hội Nhà Báo Không Biên Giới cho hay khôi nguyên giải Nobel Hòa Bình Shirin Ebadi sẽ đích thân trao tặng giải thưởng cho những người đoạt giải. Giải thưởng được chia thành 3 loại. Loại thứ nhất dành cho các nhà báo qua việc làm, lập trường có nguyên tắc và thái độ, chứng tỏ hậu thuẫn cho quyền tự do phổ biến thông tin. Loại thứ nhì dành cho các cơ quan truyền thông điển hình cho cuộc tranh đấu đòi quyền tự do thông tin cho quần chúng và quyền của người dân được thông báo về những sự cố xảy ra. Loại thứ ba dành cho những người bất đồng chính kiến, hay những blogger, bị cấm đoán bầy tỏ quan điểm của mình trên mạng.

Nhà báo Nguyễn Việt Chiến được đề cử trong loại thứ nhất, cùng với các nhà báo Moussa Kaka của Niger, Michel Kilo của Syria, Natalia Morar của Nga, J.S Tissainayagam của Sri Lanka và Ricardo Gonzales Alfonso của Cuba. Trong bản tuyên dương công trạng, Hội Nhà Báo Không Biên Giới mô tả ông Nguyễn Việt Chiến là một nhà báo chuyên về điều tra, làm việc cho nhật báo Thanh Niên ở Hà Nội, bị kết án hai năm tù trong phiên xử hồi tháng 10 năm 2008 vì những tội liên quan tới các bài tường thuật của ông về một vụ tai tiếng tham nhũng lớn xảy ra 2 năm trước đó.

Theo Hội Nhà Báo Không Biên Giới, ông Nguyễn Việt Chiến, 56 tuổi, đã bị phiên tòa kéo dài 2 ngày cho là đã lạm dụng quyền tự do dân chủ, gây phương hại tới quyền lợi của nhà nước. Được sự hậu thuẫn của các bạn đồng nghiệp bên ngoài tòa, ông Nguyễn Việt Chiến đã chống lại những lởi buộc tội này và nhấn mạnh rằng ông chỉ là một nhà báo chuyên nghiệp với mục tiêu duy nhất là phanh phui các vụ tham nhũng.

Theo Hội Nhà Báo Không Biên Giới, khi bị một công tố viên buộc tội tiết lộ bí mật nhà nước, nhà báo Nguyễn Việt Chiến trả lời rằng tin do cảnh sát cung cấp không còn là một bí mật nữa. Trước khi phiên tòa diễn ra, một trong những đồng nghiệp của nhà báo Nguyễn Việt Chiến cho hay điều xảy ra tại tòa sẽ chỉ là chuyện đem hai nhà báo vô tội ra xét xử, và phiên tòa chỉ nhắm đe dọa toàn bộ giới nhà báo mà thôi.

Vụ tai tiếng tham nhũng ông Nguyễn Việt Chiến điều tra liên quan tới một đơn vị của Bộ Giao Thông Vận Tải có tên là PMU18 bị cho là đã biển thủ ngân quỹ phát triển để cá độ các trận bóng đá. Hàng chục viên chức dính dáng vào vụ này. Lễ phát giải thưởng của Hội Nhà Báo Không Biên Giới sẽ diễn ra sáng thứ Năm 4 tháng 12 tại thủ đô Paris của Pháp.
Đảng Cộng sản Việt Nam
Việt Nam đã thay đổi nhiều, người dân đã hưởng được những quyền tự do kinh tế rộng lớn, đó là quyền tự do kinh doanh và tự do chọn lựa nguồn cung cấp sản phẩm và dịch vụ. Người dân có quyền đi du lịch nước ngoài và được khuyến khích gửi con em du học. Họ ngày càng có khả năng để thực hiện cả hai giấc mơ này. Phần đông người dân đã có thể đón nhận truyền hình hay truyền tin ngoại quốc và vào được các trang web của nước ngoài.
Chính quyền vẫn tìm cách kiểm soát những đế tài mang tính cách chính trị và văn hoá. Các đại học kinh tế ngoại quốc được khuyến khích mở trường tại Việt Nam, nhưng có một chỉ thị quy định rằng các trường đều phải giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh cho tất cả sinh viên Việt nam. Các tiệm sách đều đầy dẫy những tác phẩm dịch từ tác giả như Mẹ Thérésa cho đến Jackies Collins, tuy nhiên quy định về diễn xuất (ban hành vào năm 2004) nghiêm cấm các diễn viên nhuộm tóc hay, thậm chí, đầu trần khi lên sân khấu.Tại Trung Hoa, Hồ Cẩm Đào được nhìn nhận như nhân vật có quyền uy tối cao và quy tụ về mình chức vụ Chủ tịch nước, Tổng bí thư đảng và Chủ tịch quân ủy trung ương. Ngược lại, Việt Nam được quản lý theo nguyên tắc : Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Cá nhân chủ nghĩa không được tán dương trừ trường hợp của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đảng cộng sản cũng đã gần như từ bỏ việc bách hại tôn giáo, mặc dù các nhà sư, các cha và tín đồ Cao Đài vẫn còn bị bắt giam vì hoạt động chính trị. Thật ra, nhà chức trách đang tuyên dương những đóng góp của tôn giáo cho xã hội, mặc dù chính quyền tiếp tục đòi quyền quyết định việc phong chức cho các lãnh đạo tôn giáo.
Cấp lãnh đạo đảng biết lòng căm phẫn của quần chúng về tình trạng tham nhũng là mối nguy lớn nhất cho việc họ tiếp tục cầm quyền. Phóng viên đã được khuyên nhủ nên chấm dứt điều tra về vụ tai tiếng trong Bộ giao thông vận tải nếu nó gây tác hại đến những nhân vật ở trên cấp bộ. Hai mươi năm sau, sinh hoạt chính trị của Việt Nam không sạch sẽ hơn. Dù sao giới báo chí Việt Nam cũng không thiếu tự do hơn đồng nghiệp tại Tân Gia Ba trong công tác đem ra ánh sáng dư luận những vụ tai tiếng của các ông lớn hoặc trong công tác bình luận về tình hình chính trị. Hệ thống luật pháp không đáng tin cậy và rất hỗn độn, cách thức tuyển chọn chánh án Việt Nam vẫn còn phải chịu ảnh hưởng của đảng cộng sản.
Chính quyền Việt Nam khẳng định không có tù nhân chính trị, mặc dù một số nhân vật bất đồng chính kiến hiện đang bị giam giữ chỉ vì họ cổ súy cho dân chủ. Trên phương diện này, Trung Quốc có một quá trình đáng sợ hơn, họ dùng toà án như công cụ chính trị và đối xử với người đối lập một cách thô bạo hơn.Chỉ cần một tai nạn kinh tế (làm trì trệ tiến trình cải thiện đời sống) là đủ để điều động người dân chống lại chế độ. Hơn nữa, khi người dân đã quen với những tự do kinh tế và biết thưởng thức sự giàu sang, tự do, họ sẽ khao khát được nhiều tự do chính trị hơn. Khác với người Thái, người Việt không là một dân tộc chỉ biết cúi đầu vâng dạ. Một ngày đẹp trời, khi mức độ chán chường đã quá tải, họ có thể đánh tan sợ hãi và ăn thua đủ với chính quyền, họ không nể trọng gì những nhân vật cầm quyền.
Nhóm bất đồng chính kiến mang tên Khối 8406 đã ra bản Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam. Một đảng lưu vong, Việt Tân, đã đưa người về nước thâu nạp đảng viên và khích động để có đổi thay. Một số thành viên về Việt Nam đã bị bắt và bị trục xuất. Khi ông Hoàng Minh Chính, lãnh tụ của một tổ chức khác mang tên đảng Dân Chủ Việt Nam và cũng là một trong những sáng lập viên Khối 0486, từ trần vào tháng 02.2008, hàng trăm nhà dân chủ Việt Nam đã về Hà Nội để viếng và đưa đám ông.
Vì đã nỗ lực tạo một tư thế đáng nể phục, lãnh đạo đảng sẽ rất khó phản ứng nếu lực lượng dân chủ Việt Nam được tăng cường sức mạnh. Có thể nào họ sẽ cho quân đội lệnh bắn vào thường dân nếu phải đương đầu với tình trạng tương tự như Thiên An Môn? Liệu quân đội có tuân thủ một mệnh lệnh như vậy? Cho đến nay, việc mà đảng đã làm là cho phép một số thảo luận về đề tài nên bỏ đi tên đảng để trở thành đảng Lao Động hay với một danh xưng nào khác. Đài Loan và Hàn Quốc, một đảng độc quyền vào thập niên 80 đã từng bước dân chủ hoá đất nước. Chính trường của hai quốc gia này có thể thô bạo. Nhưng tiến trình dân chủ hoá đã đưa hai nước này đến đỉnh cao của thịnh vượng và đỉnh cao của nền kinh tế kỹ nghệ. Đó là những gí Việt Nam mong muốn.
Đảng có đến 3.2 triệu đảng viên. Theo nhận xét của một học sinh, đảng viên được kết nạp từ những thành phần ưu tú nhất trong giới sinh viên. Nhưng những đảng viên này thường bị những người bạn cùng lớp dè bỉu vì những đặc quyền mà họ được ban phát. Có lẽ nỗi căm giận này xuất phát từ nạn lạm dụng tư thế đảng viên để móc nối và mưu cầu lợi ích cá nhân hơn là ước vọng phục vụ đất nước. Mọi việc trên có thể được xem như lạc quan tếu. Nhưng nếu đảng Cộng sản đã có khả năng biến một đất nước đổ nát vì chiến tranh, chia rẽ và nghèo nàn lạc hậu trở thành một Việt Nam thống nhất, thịnh vượng và, rồi cuối cùng là tự do dân chủ, thì chắc là họ sẽ được định công qua thùng phiếu.
Quyết Nghị của Quốc hội Châu Âu (15.10.2008)về Hiệp ước đối tác và hợp tác mới giữa Liên Âu - Việt Nam và vấn đề Nhân quyền

QUỐC HỘI CHÂU ÂU

- chiếu theo các Nghị Quyết trước đây về vấn đề Việt Nam,
- chiếu theo Hiệp ước Hợp tác năm 1995 giữa Liên hiệp Châu Âu và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
- chiếu theo Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam tham gia ký kết năm 1982,
- chiếu theo điều 108, chương 5, Quy chế Liên hiệp Châu Âu,
A. Vì rằng, cuộc thảo luận lần thứ hai giữa Liên hiệp Châu Âu và Việt Nam diễn ra tại Hà Nội tronghai ngày 20 và 21.10.2008,

B. Vì rằng, cuộc điều trần về Việt Nam , Lào và Cam Bốt do Phân ban Nhân quyền tổ chức hôm 25.8.2008,

C. Vì rằng, cuộc họp Đối thoại nhân quyền giữa Ba vị chủ tịch Liên hiệp Châu Âu [tiền nhiệm, đương nhiệm và sắp tới] với Việt Nam ấn định vào tháng 12.2008, D. Vì rằng, Điều 1 trong Hiệp ước Hợp tác giữa Liên hiệp Châu Âu và CHXHCNVN ấn định rằng "tôn trọng nhân quyền và những nguyên tắc dân chủ là nền tẳng cho việc hợp tác giữa hai bên là điều kiện của hiệp ước và cũng là yếu tố chủ yếu của Hiệp ước",

E. Vì rằng, tự do hội họp bị hạn chế nghiêm trọng : tháng 9.2008 chính quyền Việt Nam phát động cuộc đàn áp khắc nghiệt nhất trong nhiều thập niên qua đối với người Công giáo biểu tình ôn hòa tham gia cầu nguyện tại Hà Nội để đòi đất đai giáo sản bị chính quyền tịch thu,

F. Vì rằng, tự do báo chí bị hạn chế nghiêm trọng : trong năm 2008 nhiều ký giả Việt Nam bị bắt hay bị trừng phạt vì tường thuật nạn tham nhũng của giới quan chức, và, ngày 19.9.2008, Trưởng phòng Mỹ liên xã (AP), ông Ben Stocking bị bắt, bị công an đánh đập khi ông theo dõi cuộc biểu tình ôn hòa của người Công giáo Việt Nam tại Hà Nội,

G. Vì rằng, các dân tộc ít người miền thượng du Bắc Việt và Cao nguyên Trung phần luôn luôn là nạn nhân bị phân biệt đối xử, bị tịch thu đất đai, và bị vi phạm quyền tự do tôn giáo và văn hóa; vì rằng các tổ chức phi chính phủ độc lập cũng như các nhà báo không được tự do đến các vùng cao nguyên để chứng kiến thực trạng của những người Thượng, và đặc biệt thực trạng của những người Thượng hồi hương từ Cam Bốt; vì rằng hơn 300 người Thượng đã bị kết án tù từ năm 2001 do tham gia những hoạt động chính trị và tôn giáo ôn hòa,

H. Vì rằng, mặc Cộng đồng thế giới không ngớt kêu gọi liên tục, nhà lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ (79 tuổi), đoạt Giải Nhân quyền Rafto năm 2006, từng nhiều lần bị bắt bỏ tù từ năm 1982 và hiện nay vẫn còn tiếp tục bị quản chế,

I. Vì rằng, chính quyền Việt Nam vẫn chưa chịu công nhận quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tổ chức Phật giáo lớn nhất tại Việt Nam.

J. Vì rằng, Việt Nam thiết lập những điều luật hạn chế quyền tự do vào mạng internet, thông qua việc kiểm tra và kiểm soát nội dung văn bản, và đã bắt giam những "nhà ly khai sử dụng Internet" với lý do dùng internet để phổ biến các quan điểm nhân quyền và dân chủ hay thảo luận dân chủ; vì rằng, ngày 10.9.2008, ông Nguyễn Hoàng Hải, nhà báo sử dụng mạng Blog cũng là người bảo vệ nhân quyền, được biết qua bút hiệu Điếu Cày, đã bị kết án tù,

K. Vì rằng, những thành viên thuộc dân tộc ít người Khmer (Khmer Krom) ở miền Nam Việt Nam, bị đàn áp tôn giáo, bị tịch thu đất đai, chính quyền còn bắt hoàn tục khoảng 20 Tăng sĩ Phật giáo Khmer krom vì họ tham gia cuộc biểu tình ôn hòa tháng 2.2007 kêu gọi cho tự do tôn giáo, trong số này năm người bị kết án tù, chính quyền Việt Nam quản chế Tăng sĩ Tim Sakhorn sau khi mãn hạn tù tháng 5.2008, và chính quyền còn bạo hành đối với nông dân khmers kroms khiếu kiện việc tranh cãi đất đai,

QUỐC HỘI CHÂU ÂU

1. Nhấn mạnh rằng cuộc đối thoại nhân quyền giữa Liên hiệp Châu Âu với Việt Nam phải đưa tới những cải thiện xác thực tại Việt Nam; yêu cầu Hội đồng Châu Âu và Ủy hội Châu Âu phải định giá lại chính sách hợp tác với Việt Nam, cần xét đến Điều 1 trong Hiệp ước Hợp tác ký kết năm 1995, qua đó công cuộc hợp tác đặt nền tảng trên sự tôn trọng các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền cơ bản;

2. Kêu gọi Ủy hội Châu Âu thiết lập các tiêu chuẩn minh bạch nhằm lượng định các dự án phát triển hiện hành tại Việt Nam để bảo đảm sự tương hợp với điều khoản liên quan đến nhân quyền và dân chủ;

3. Kêu gọi Ủy hội Châu Âu và Hội đồng Châu Âu, trong khuôn khổ thương thuyết đang diễn ra cho Hiệp ước đối tác và hợp tác mới, sẽ phải có một điều khoản rõ ràng, không nhập nhằng về nhân quyền và dân chủ phối hợp với một công cụ nhằm bảo đảm sự thực hiện điều khoản này, cũng như đề xuất với nhà cầm quyền Việt Nam nhu cầu chấm dứt hiện trạng vi phạm quy mô dân chủ và nhân quyền trước khi hoàn thành dạng bản Hiệp ước, và ĐẶC BIỆT YÊU SÁCH CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM :

- là thành viên Hội đồng Bảo an LHQ, hợp tác tích cực với cơ cấu Nhân quyền LHQ, bằng cách thỉnh mời đến Việt Nam Báo cáo viên Đặc nhiệm Bất bao dung Tôn giáo, mà chuyến điều tra cuối cùng tại Việt Nam thực hiện năm 1998, và Tổ Hành động Chống bắt bớ trái phép, mà chuyến điều tra cuối cùng tại Việt Nam thực hiện năm 1994; cũng như cho phép các viên chức LHQ, các Báo cáo viên đặc biệt được tự do thăm viếng mọi miền, kể cả miền Thượng du phía Bắc và Cao nguyên Trung phần, để gặp gỡ trao đổi riêng tư với những tù nhân chính trị và tôn giáo, cũng như với những người sắc tộc xin tị nạn từ Cam Bốt trở về Việt Nam;
- trả tự do tức khắc cho mọi cá nhân bị tù đày hay giam giữ vì lý do biểu tỏ ôn hòa chính kiến hay tôn giáo, đặc biệt là nhóm 300 người thượng Thiên chúa giáo, cũng như các Tăng sĩ Phật giáo khmers kroms, các nhà đấu tranh cho dân chủ, các Dân oan khiếu kiện quyền đất đai, các nhà ly khai sử dụng Internet, các nhà lãnh đạo công đoàn, các thành viên giáo xứ Công giáo, các tín hữu Phật giáo Hòa Hảo và Cao Đài;

- chấm dứt tức khắc việc quản chế Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo tối cao Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và Tăng sĩ Phật giáo khmer krom, Tim Sakhorn, được trả tự do tháng 5.2008 nhưng vẫn còn bị quản chế;

- cho phép các tổ chức tôn giáo độc lập được quyền sinh hoạt tôn giáo mà không bị chính quyền can dự, và để cho các tổ chức này được quyền tự do đăng ký trước các cơ quan công quyền nếu họ yêu sách; hoàn trả các giáo sản và chùa viện bị chính quyền Việt Nam tịch thu và phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất;

- bãi bỏ các luật pháp Việt Nam nhằm kết tội các nhà bất đồng chính kiến hay các hoạt động tôn giáo căn cứ theo khái niệm mơ hồ xâm phạm "an ninh quốc gia", để các luật pháp này không áp dụng cho những cá nhân sử dụng các quyền cơ bản của họ về tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội và tự do tín ngưỡng;
- chấm dứt sự kiểm duyệt và kiểm soát của chính quyền Việt Nam đối với các cơ quan truyền thông quốc gia, kể cả mạng lưới Internet và điện tử, và cho phép phát hành nhật báo và tạp san tư nhân, độc lập;

4. Ủy nhiệm Chủ tịch Quốc hội Châu Âu chuyển giao Quyết Nghị này đến Hội đồng Châu Âu, Ủy hội Châu Âu, cũng như đến các Chính phủ thành viên Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, Tổng Thư ký LHQ, Cao ủy Nhân quyền LHQ cũng như Chính phủ và Quốc hội Việt Nam.
Việt Nam liên tiếp ban hành quy định quản lý Internet và blog cá nhân.

Trong tháng 12/2008 văn bản khác dưới dạng thông tư sẽ ra đời để quản lý riêng loại hình blog. Việt Nam thật sự muốn kiểm soát hình thức thông tin trên blog. Chính Phủ ban hành Nghị Định 08/2008 liên quan đến việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet tại Việt Nam. Nghị định này liệt kê một số hành vi bị cấm khi sử dụng Internet, trong đó có hành vi “chống lại nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.” Hội Thảo “Xây Dựng Thông Tư Về Hoạt Động Cung Cấp Thông Tin Trên Blog” ngày 27 tháng 11 vừa qua ngụ ý sẽ có một thông tư riêng, qui định các hoạt động liên quan đến blog.

Blog là do một người viết, và những điều người ấy viết có thể là cảm xúc cá nhân, những điều tai nghe mắt thấy, hoặc bình luận về các vấn đề xã hội. Đó không phải là bản tin. Mặc dầu một blog có thể đề cập đến vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, nhưng không thể gọi là bản tin, đó chỉ là cách suy nghĩ, nhìn nhận của duy nhất một cá nhân.

Sự xuất hiện của Internet góp phần vô hiệu hoá nỗ lực kiểm soát thông tin của chính quyền Việt Nam. Những thông tin, suy nghĩ xưa nay được xem là nhạy cảm thì càng ngày càng được chia sẻ trên Internet. Người dân ngày càng nhận biết blog là nguồn thông tin rất quý, là công cụ phát biểu ý kiến rất tốt. Blog là nơi mọi người có thể tham gia mà không bị sự cản trở của nhà nước. Blog là một sự tự do thông tin, tự do báo chí tốt tại Việt Nam hiện nay

Những tháng cuối năm 2007, phong trào thanh niên sinh viên biểu tình chống Trung Quốc trong vụ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một phần được khởi xướng và loan truyền trên Internet. Thời điểm ấy, một blogger nổi tiếng với bút danh Điếu Cày, hiện đang ở bị cầm tù tại Việt Nam, đã nhận định blog là một sự tự do thông tin.

Tình trạng thiếu tự do báo chí, đã khiến cho độc giả Việt Nam có nhu cầu tìm kiếm những thông tin khách quan, mà các tờ báo trong nước không có. Từ thực tế này, nhiều blogs đã nhanh chóng chuyển mình trở thành những tờ báo không chính thức. Nhiều bloggers thì đã biến thành những ký giả nhiệt thành, họ đăng tải tất cả những tin tức nhạy cảm mà giới truyền thông chính thức không thể làm được. Qua vụ Trung Quốc chiếm Hoàng Trường Sa và thành lập thành phố Tam Sa, các cuộc biểu tình của sinh viên thanh niên ở trong nước, thì ta thấy không một báo chí nào dám đăng, nhưng mà nhờ cộng đồng blog, mọi người đã biết rằng là sinh viên ở trong nước biểu tình trước tòa đại sứ và lãnh sự quán Trung Quốc để phản đối kế hoạch Tam Sa.

Nhiều tin tức thuộc loại nhạy cảm mà 700 tờ báo chính thức không đưa ra thì ở blog, mọi việc được phô bày ra hết. Từ vụ PMU18, đến những biểu tình tại Hồ Chí Minh và Thái Hà. Mỗi blogger là một nhà báo công dân, khi đưa thông tin lên blog tức đã để mọi người cùng được biết, mọi người cùng, dùng quyền công dân của mình để đòi hỏi Nhà nước thực hiện cho đúng chức năng mà luật pháp quy định.

Ngoài vai trò một tờ báo công dân, blog còn đã phát triển để trở thành một phòng họp vượt không gian, như trong thời gian chuẩn bị cho cuộc biểu tình phản đối kế hoạch Tam Sa của Trung Quốc, các bloggers đã dùng blog để thông báo cho nhau chương trình hành động và các điểm hẹn đã phải thay đổi liên tục vì nhu cầu bảo mật.

Việc quản lý blog sẽ rất khó thực hiện. kiểm duyệt hàng triệu trang blogs đòi hỏi một lực lượng hùng hậu khó ai có thể đáp ứng được. Nếu một blog bị cấm không cho xuất hiện, thì chỉ năm phút sau chủ nhân của blog này có thể cho ra đời một blog mới để tiếp tục viết một cách dễ dàng. Hệ thống chằng chịt của blog, và các tương quan chặt chẽ giữa các bloggers cùng quan điểm, họ sẽ có khuynh hướng liên kết với nhau trong các thái độ phản kháng nếu cần, và hỗ trợ nhau trong những thông tin và kiến thức kỹ thuật để tránh sự kiểm duyệt.

Các chính phủ cần phải hiểu rằng mọi kiểm duyệt trên mạng lưới toàn cầu đều không dễ thực hiện, vì cộng đồng dân mạng sẽ dùng hết tất cả sự hỗ trợ của kỹ thuật để vượt qua mọi chướng ngại trong mục đích bảo vệ cho tự do tư tưởng và tự do ngôn luận của họ.
Một cựu sĩ quan thời Xô-viết, người đã bắn rơi máy bay của Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ ông McCain năm 1967 ở Việt Nam nói rằng ông lấy làm vui mừng khi thấy ông McCain thất cử trong cuộc chạy đua vào tòa Bạch Cung, theo tờ báo của Nga cho hay hôm thứ Hai ngày 17 tháng Mười Một năm 2008.

Ông McCain đã bị bắn rơi ở Hà Nội trong một phi vụ đánh bom ngày 26 tháng Mười năm 1967, và đã bị bắt sống bởi Bắc Việt. Ông đã trải qua năm năm rưỡi tù ở một trại tù binh chiến tranh được mệnh danh là Hanoi Hilton, và ông cho rằng ông đã bị tra tấn. Tình trạng bị giam cầm đã làm ông không thể đưa hai tay lên qúa đầu do vết thương trong khi bị bắn rơi. Mặc dù những người cai tù Việt Nam trước đây nói rằng họ đã tha thứ ông vì tội đánh bom, và ngay cả ủng hộ ông McCain trong mùa tranh cử tổng thống này. Quân đội Xô-viết đã từng phục vụ với phe cộng sản Bắc Việt trong hai thập niên 1960 và 1970.

Tuy nhiên, ông Trushyekin, hiện đang nằm chữa bệnh ở một bệnh viện tại thành phố St. Petersburg, Nga chẳng e ngại gì khi nói đến thời gian ông phục vụ trong những khu rừng gìa của vùng Đông Nam Á châu này. “Tôi đến Việt Nam trong thời còn có những đơn vị hỗn hợp với lính Việt Nam,” ông nói thêm là ông đã đến Việt Nam năm ông 28 tuổi để tham dự cuộc chiến tranh đánh Hoa Kỳ cùng với bộ đội Bắc Việt. Ông phục vụ như là một sĩ quan ở một đơn vị hỏa tiển.

Trong ngày định mệnh khi ông McCain bị bắn rơi, ông Trushyekin hồi tưởng lại tổ của ông lúc đó sẵn sàng rời nhiệm sở bảo vệ một cái cầu khi hai máy bay của Hoa Kỳ xuất hiện trong tầm nhìn."Việt Nam đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Cộng" lãnh đạo Việt Cộng đã nói thế. Có những bằng chứng là ngay chính lính Nga cộng và Tàu cộng cũng đã tham dự trong cuộc chiến VN. Tài liệu của Tàu cộng đã bật mí và ông Yuri này là một bằng chứng sống khác.

Cộng Sản Bắc Việt là những bù nhìn cho Nga Tàu. Đảng CSVN đã lấy sự hiện diện của lính Mỹ tại Việt Nam để khêu gợi lòng ái quốc của người dân, kêu gọi họ "chống Mỹ can thiệp vào VN". Trong khi đó thì lính Trung Quốc và lính Nga cũng có mặt tại VN nhưng đảng CSVN dấu dân chuyện này. Trong bài bản tuyên truyền của CSVN không để cho người dân thấy sự hiện diện của lính Trung Quốc và lính Nga tại VN.

Cả hai miền cùng phải nhận viện trợ của ngoại quốc nhưng CSVN thì xem việc miền Nam nhận viện trợ của Mỹ là làm tay sai cho Mỹ, là đánh thuê cho Mỹ. Trong khi đó việc CSVN nhận viện trợ của phe CS thì CSVN gọi là "sự giúp đỡ chí tình". Cùng là việc có mặt của lính ngoại quốc trên đất VN nhưng đảng CSVN dấu việc lính Trung Quốc và lính Nga sang VN đánh nhau, chỉ đưa ra việc lính Mỹ đến miền Nam để đổ cho Mỹ là xâm lăng. ông Hồ còn làm việc bậy tày trời là đem Hoàng Sa, Trường Sa dâng cho Trung Quốc để đổi lấy sự giúp đỡ của Trung Quốc mà đánh phe quốc gia.

Đem dâng đất cho ngoại bang để có phương tiện mà đánh nhau là đã không bảo vệ sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ rồi. Cuộc chiến Vietnam là một cuộc chiến mà phe tà thắng phe thiện. Cùng một nòi giống, nhưng con người cs quá tàn ác, dả man, tiêu diệt anh em mình. Đức Quốc Xả, Nhật Bổn, v.v., theo lịch sử rất tàn ác với ngoại bang, nhưng rất bênh vực đồng loại.

Đáng lẻ ra sau 1975, CSVN phải xây đài tưởng niệm tưởng nhớ chiến sỉ 2 miền Nam Bắc, bắc tay với anh em miền Nam xây dựng một đất nước phú cường như Tây Đức đả làm. Điều này cho chúng ta biết không CS nào cũng như nhau (100 triệu nạn nhân đả và đang tiếp tục làm tế thần cho CS vô thần).

Tượng đài tưởng nhớ hàng triệu đồng bào xấu số đả bỏ mình trên biển cả vì đó khát, vì bị hải tặc hảm hiếp giết chết, vì bị cướp bóc đánh đập tàn nhận, vì đa số những lý do nào khác trên đường đi tìm tự do -nhưng những tượng đài này đả bị đảng CSVN tàn phá - chứng minh rỏ ràng CSVN là lủ ma cô tàn nhẫn nhất trong lịch sử nhân loại. Chỉ có ma quỷ mới có thể làm những chuyện động trời như VC vô thần, bán nước.ài Tưởng niệm nạn nhân cộng sản

Đài Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản (Victims of Communism Memorial ) khánh thành ngày 12, tháng 6 năm 2007 tại thủ đô Washington D.C., Hoa Kỳ. Đài Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản của Tiệp Khắc (Memorial to the victims of Communism – Prague ). Viện Bảo tàng Nạn nhân Cộng sản của Lỗ Ma Ni ( Memorial Museum of the Victims of Communism – Sighet, Romania). Tượng Nữ Thần Dân Chủ ( Godness of Democracy ) đã được các sinh viên Trung Quốc dựng nên trong cuộc biểu tình năm 1989 tại Thiên An Môn. Bức tượng đã từng chứng kiến máu những người vô tội đổ xuống trước họng súng man rợ của kẻ cầm quyền. Và từ đó tượng đã được dựng nên ở nhiều nơi như một lời hiệu triệu cho dân chủ.

Ước lượng có trên 100 triệu người đã chết trong những trại tập trung của Liên Xô, trong cuộc Cách Mạng Nhảy Vọt của Mao Trạch Đông, dưới chế độ Pol Pot, trong trong trại tù cải tạo và hành trình vượt biển của người Việt Nam, và còn trong rất nhiều vụ tàn sát đẫm máu khác. Tượng Nữ Thần Dân Chủ của các sinh viên Thiên An Môn đã được chọn. Vị nữ thần này sẽ nhắc nhở rằng một cuộc tàn sát đẫm máu mà cả thế giới tưởng rằng không thể xảy ra.

Tam Sa

Tam Sa

Tam Sa bao gồm các quần đảo Tây Sa, Hoàng Sa và Trường Sa, là tên của một đơn vị hành chánh cấp huyện được Quốc Vụ Viện Trung cộng thành lập ngày 2-12-2007. Trung cộng đánh chiếm Hoàng Sa vào tháng giêng năm 1974, khiến 58 binh sĩ QLVNCH anh dũng hy sinh.

Năm 1979, trong trận chiến biên giới, Trung cộng di dời nhiều cột mốc vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam, chiếm cứ nhiều cao điểm. Núi Đất thuộc huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang đã trở thành Lão Sơn của Trung cộng, Núi Bạc thuộc huyện Yên Minh, nay là giải Âm Sơn thuộc Trung cộng. Tại Lạng Sơn, các dãy 820, 636 thuộc xã Quốc Khánh, huyện Tràng Định cũng đã thuộc về Trung cộng.

Tháng 2 năm 1988, Trung cộng xua chiến hạm đánh chiếm một số đảo của quần đảo Trường Sa, giết hại 74 bộ đội hải quân cộng sản. Cuối thập niên 1990, và cuối năm 2000, Trung cộng buộc CSVN ký kết những hiệp ước phân định biên giới trên bộ và trên biển, làm thiệt hại của Việt Nam nhiều vùng đất phiá bắc, và trên 11.000 cây số vuông trong vịnh Bắc Việt.

Bắc Kinh in lại bản đồ ghi rõ Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Trung cộng. Hải quân Trung cộng ngang nhiên bắt giữ và giết hại ngư phủ Việt Nam, hăm dọa và xua đuổi những nhà thầu quốc tế ký hợp đồng với Việt Nam để thăm dò dầu khí. Việc thành lập Tam Sa chỉ là sự kết thúc của một giai đoạn, giai đoạn mà Trung cộng với sự tiếp tay của chư hầu CSVN (Phạm Văn Đồng bán nước từ thập niên 1950 với công hàm bán nước) đã làm chủ nhiều vùng lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam.

Thanh niên sinh viên trong nước đã đứng lên biểu tình chống Trung cộng trước cổng dinh thái thú Trung cộng tại Sài Gòn và Hà Nội, khi biết tin Trung cộng thành lập Tam Sa, những ngày 9 và 16 tháng 12-2007 đã trở thành những ngày lịch sử của tuổi trẻ Việt Nam, họ bất chấp sự đàn áp của công an. Việc bảo toàn lãnh thổ sẽ là bất khả khi Việt Nam còn bị cai trị bởi chế độ độc tài. Một chế độ độc tài như CSVN không thể huy động sức mạnh của toàn khối dân tộc để chống trả với ngoại xâm.

Sau ải Nam Quan, sau thác Bản Giốc, sau Hoàng Sa, Trường Sa, những địa danh nào sẽ từ từ biến mất trên bản đồ Việt Nam, Việt Nam phải đương đầu nguy cơ mất nước. Việc lên tiếng xác định chủ quyền là nỗ lực vô cùng quan trọng, khi nhà nước cộng sản vì khiếp nhược nên đã lặng câm. Họ còn tìm cách viện dẫn sai lạc những bài học lịch sử để che đậy cho thái độ khiếp nhược cố hữu.

Tuesday, December 2, 2008

Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Nguyễn Ái Quốc

Hồ Chí Minh đã sống độc thân suốt thời gian dài lâu nhưng hoàn toàn không phải người suốt đời không lấy vợ. Hồ Chí Minh từng có một giai đoạn sống trong hôn nhân chính thức. Ðó là vào thời kì những năm 20 đầu thế kỉ XX khi người tiến hành công tác cách mạng tại Quảng Châu, Trung Quốc. Vào tháng 10 năm 1926, Hồ Chí Minh từng lấy cô gái Quảng Châu Tăng Tuyết Minh làm vợ, đã cử hành hôn lễ, sau khi cưới đã chung sống với nhau hơn nửa năm. Vào tháng 5 năm 1927, sau khi rời Quảng Châu, Hồ Chí Minh đã mất liên lạc với vợ và từ đó không thể gặp lại nữa.

Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Hồ Chí Minh, quê ở huyện Mai tỉnh Quảng Ðông, sinh tháng 10 năm 1905 ở thành phố Quảng Châu. Thân phụ của Tuyết Minh là Tăng Khai Hoa, thời trẻ một mình đến Ðàn Hương Sơn (Hono-lulu) lúc đầu làm công, sau buôn bán ; khi tích luỹ được ít vốn liếng, trở về nước tiếp tục buôn bán, gia cảnh khấm khá, vui vẻ. Người vợ đầu của ông Tăng Khai Hoa họ Phan, sinh được hai trai một gái. Sau khi bà Phan bị bệnh mất, ông lấy bà vợ kế họ Lương là người huyện Thuận Ðức sinh được 7 cô con gái nữa.

Tăng Tuyết Minh là con út, bởi vậy những người quen biết Tăng Tuyết Minh thường gọi cô là " cô Mười ". Khi cô 10 tuổi thì người cha qua đời, để lại một chút bất động sản. Bà Lương thị cùng Tuyết Minh sống qua ngày nhờ vào tiền thuê nhà, gia cảnh không được như trước. Năm 1918, mới 13 tuổi, Tuyết Minh đã bắt đầu theo chị là Tăng Tuyết Thanh, một y sĩ sản khoa, học việc hộ lí và đỡ đẻ. Ðầu năm 1923, người chị ấy đưa Tăng Tuyết Minh đến Phiên Ngu để học Cao đẳng tiểu học. Nửa năm sau, Tăng Tuyết Thanh chẳng may lìa đời, Tăng Tuyết Minh mất đi nguồn chu cấp, ngay tháng 7 năm ấy phải vào trường Hộ sinh Quảng Châu học tập. Tháng 6 năm 1925, Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường trợ sản, được ông hiệu trưởng giới thiệu đến trạm y tế La Tú Vân làm nữ hộ sinh. Chính thời gian này Tăng Tuyết Minh làm quen với Hồ Chí Minh lúc ấy đang tiến hành công tác cách mạng ở Quảng Châu.

Tháng 11 năm 1924, Hồ Chí Minh từ Mạc Tư Khoa đến Quảng Châu, lấy tên là Lý Thuỵ, làm việc tại phòng phiên dịch của cố vấn Borodin, thuộc Hội Lao Liên của Tôn Trung Sơn, trú ngụ tại nhà hàng của ông Bào tại quảng trường Ðông Hiệu. Sau những giờ làm công tác phiên dịch, Hồ Chí Minh dành nhiều thì giờ và tâm sức vào công việc liên kết và tổ chức các chiến sĩ cách mạng Việt Nam, sáng lập tổ chức cách mạng Việt Nam, huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam trong công tác. Trong thời gian ấy, những thanh niên cách mạng Việt Nam đến Quảng Châu trước như Hồ Tùng Mậu, Lâm Ðức Thụ đều trở thành trợ thủ đắc lực cho Người. Lâm Ðức Thụ cùng người vợ Trung Quốc của ông là Lương Huệ Quần chính là ông mối bà mối cho cuộc hôn nhân của Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh.

Lâm Ðức Thụ vốn tên là Nguyễn Công Viễn, người huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, Việt Nam, sinh năm 1890 (cùng tuổi với Hồ Chí Minh). Hồ Chí Minh cùng với gia đình Lâm Ðức Thụ có thể nói là chỗ giao hảo nhiều đời. Hai người quen biết nhau từ thuở thiếu thời, lại cùng chí hướng. Năm 1911, Hồ Chí Minh đến châu Âu tìm chân lí cách mạng, gần như đồng thời, hưởng ứng lời hiệu triệu của nhà chí sĩ chống Pháp lão thành Phan Bội Châu, Lâm Ðức Thụ muốn Ðông du qua Nhật, nhưng khi nổ ra Cách mạng Tân Hợi, Phan Bội Châu tới Trung Quốc, sáng lập Việt Nam Quang phục hội ở Quảng Châu, Lâm Ðức Thụ theo Phan Bội Châu đến Quảng Châu và gia nhập hội đó. Ðầu năm 1922, một số thanh niên nhiệt huyết trong Việt Nam Quang phục hội cảm thấy thất vọng về cánh già bảo thủ nên đã li khai Quang phục hội để lập ra một đoàn thể cấp tiến hơn là Tâm tâm xã. Sau khi đến Quảng Châu, Hồ Chí Minh rất nhanh chóng liên hệ được với Tâm tâm xã và quyết định cải tạo tổ chức này thành một tổ chức cách mạng chân chính của giai cấp vô sản Việt Nam. Hồ Chí Minh vốn quen biết Lâm Ðức Thụ từ trước nên ở Quảng Châu Người coi Lâm là cốt cán có thể tin cậy.

Lâm Ðức Thụ hoạt động ở Quảng Châu một thời gian khá lâu. Ở đây ông đã lấy cô gái Trung Quốc Lương Huệ Quần làm vợ. Mẹ của Lương Huệ Quần là một thầy thuốc đã mở tại thành phố Quảng Châu một dịch vụ y tế. Lương Huệ Quần có làm công tác y tá tại đó. Năm 1925, Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường Bảo sinh trợ sản, qua sự giới thiệu của ông hiệu trưởng đã tới cơ sở dịch vụ y tế của mẹ Lương Huệ Quần làm cô đỡ nên đã nhanh chóng quen biết với Lương Huệ Quần và trở nên thân thiết. Lương Huệ Quần lớn hơn Tăng Tuyết Minh 3 tuổi nên cô thường gọi là " chị Quần ", hai cô đối xử với nhau như chị em ruột.

Lâm Ðức Thụ sau năm 1927 đã từng bước phản bội, li khai hàng ngũ cách mạng Việt Nam làm không ít điều nguy hại cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhưng tại thời điểm mấy năm Hồ Chí Minh mới đến Quảng Châu thì ông ta cũng là một thanh niên cách mạng hăng hái có triển vọng. Hồ Chí Minh chẳng những được Lâm Ðức Thụ phối hợp và chi viện trong công tác mà còn được Lâm giúp đỡ cả về mặt kinh tế. Hồ Chí Minh thậm chí đã đem cả chuyện trăm năm của mình phó thác cho Lâm Ðức Thụ. Mùa hè năm 1926, Hồ Chí Minh đề xuất với Lâm Ðức Thụ rằng do việc công quá bận rộn, anh cũng muốn tìm một cô gái Trung Quốc để tiện trong cuộc sống nơi cư trú có người chăm sóc. Lâm Ðức Thụ cùng với vợ là Lương Huệ Quần bàn bạc thấy Tăng Tuyết Minh là đối tượng thich hợp bèn giới thiệu cho Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh làm quen với nhau.

Hồ Chí Minh sau khi gặp mặt Tăng Tuyết Minh đã rất có cảm tình với cô gái Quảng Châu có gương mặt trái xoan, da trắng nõn điềm đạm, đoan trang, thông minh, sáng dạ, vì vậy sau giờ làm thường hẹn gặp và trò chuyện với cô. Nơi gặp gỡ thường là nhà Lương Huệ Quần. Cảm tình của đôi bên ngày càng sâu sắc, nhanh chóng đi đến trao đổi về hôn lễ. Thời gian này Hồ Chí Minh thường đưa Tăng Tuyết Minh đến nhà hàng của ông Bào để gặp phu nhân họ Bào và tranh thủ ý kiến của bà về việc hôn nhân của họ. Phu nhân họ Bào nhiệt liệt tán thành việc kết hôn của họ. Thế nhưng bà mẹ Tăng Tuyết Minh ngay từ đầu không đồng ý cuộc hôn nhân này vì thấy Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng phiêu lưu bạt xứ, ở không định nơi, con gái lấy người như vậy rồi sẽ khổ đau một đời.

Ðúng vào lúc ấy người anh hai của Tăng Tuyết Minh là Tăng Cẩm Tương, sau một thời gian sang Mỹ học tập đã trở về Quảng Châu.Anh gặp Hồ Chí Minh và thuyết phục bà mẹ đồng ý với cuộc hôn nhân này.

Hồ Chí Minh gặp Tăng Tuyết Minh luôn luôn. anh động viên Tuyết Minh thôi việc nữ hộ sinh ở cơ sở dịch vụ y tế và tham gia học tập ở một lớp huấn luyện vận động phụ nữ. Lúc ấy Ban phụ vận của Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc do Hà Hương Nghi chủ trì, đang dự định mở một cơ sở huấn luyện vận động phụ nữ tại Quảng Châu nhằm bồi dưỡng cán bộ phụ nữ trong nước. Hồ Chí Minh thông qua sự quen biết trực tiếp với các vị Chu Ân Lai, Ðặng Dĩnh Siêu, Lí Phú Xuân, Thái Sướng, xin được hai suất cho Tăng Tuyết Minh và Lương Huệ Quần cùng vào học lớp huấn luyện vận động phụ nữ. Kì ấy, lớp khai giảng ngày 16 tháng 9 năm 1926 và kết thúc vào ngày 16 tháng 3 năm 1927, thời gian học tập là nửa năm. Quảng Châu thời ấy là trung tâm của cách mạng Trung Quốc. Trong quá trình lớp huấn luyện phụ vận tiến hành, người ta chẳng những đã mời không ít các đồng chí có trách nhiệm của Ðảng cộng sản Trung Quốc đến giảng mà còn tổ chức cho học viên tham gia các hoạt động xã hội. Nhờ được học tập, quả nhiên Tăng Tuyết Minh tiến bộ rất nhanh, trong khoá học, được bạn đồng học là Trịnh Phúc Như giới thiệu, cô đã gia nhập Ðoàn Thanh niên xã hội chủ nghĩa.

Do Hồ Chí Minh lại thúc giục nên hôn lễ của hai người đã được cử hành vào tháng 10 năm 1926. Lúc ấy Hồ Chí Minh 36 tuổi, còn Tăng Tuyết Minh 21. Ðịa điểm tổ chức hôn lễ là nhà hàng Thái Bình trước Ty Tài chính ở trung tâm thành phố. Ðó cũng là địa điểm mà một năm trước đấy Chu Ân Lai và Ðặng Dĩnh Siêu mời khách đến dự lễ kết hôn của mình. Tham dự hôn lễ có phu nhân Bào La Ðình, Thái Sướng, Ðặng Dĩnh Siêu và một bộ phận học viên khoá huấn luyện phụ vận. Phu nhân họ Bào tặng một lẵng hoa tươi.

Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh tạm trú trong Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội, vốn là nơi nghỉ ngơi của Hồ Chí Minh. Lúc ấy, Hồ Chí Minh đang chủ trì khoá huấn luyện chính trị đặc biệt thứ III của Việt Nam, do học viên khá đông nên địa điểm học tập đã chuyển từ Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội đến phố Nhân Hưng ở đường Ðông Cao. Mấy ngày sau Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh dọn đến trú ngụ ở quán của ông Bào, lúc đầu dùng bếp tập thể, sau tự nấu nướng. Hồ Chí Minh bận rộn công tác, mọi việc nhà đều do Tăng Tuyết Minh quán xuyến. Cô chăm sóc chu đáo mọi sự ăn uống, sinh hoạt thường ngày của Hồ Chí Minh, giúp cho anh từ tuổi 21 đã xa nhà bôn tẩu, làm " kẻ phiêu diêu " góc bể chân trời, thì nay sau 15 năm lại có được cảm giác ấm áp " ở nhà mình ". Hồ Chí Minh rất mãn nguyện về cô vợ Trung Quốc của mình. Sau ngày cưới, Hồ Chí Minh từng nhiều lần đàm đạo với Lâm Ðức Thụ, Lương Huệ Quần về vợ mình, đều nói rõ điều đó.

Ngày 12 tháng 4 năm 1927, mới nửa năm sau khi Hồ Chí Minh với Tăng Tuyết Minh kết hôn, Tưởng Giới Thạch phản bội cách mạng, phát động cuộc chính biến phản cách mạng tại Thượng Hải, tình thế ở Quảng Châu cũng chuyển biến theo. Trước đó, chính phủ Quốc dân đã rời tới Vũ Hán. Trụ sở của đoàn cố vấn Lao Liên cũng rời tới Vũ Hán. Và tất nhiên, Hồ Chí Minh cũng phải chuyển đến Vũ Hán.

Do Tưởng Giới Thạc phản bội, thành Quảng Châu rơi vào giữa một cuộc khủng bố trắng. Sau khi chia tay với Hồ Chí Minh, Tăng Tuyết Minh một mình về sống với mẹ và những người thân. Trong hai năm, từ tháng 7 năm 1927 đến tháng 6 năm 1929, Tăng Tuyết Minh vào trường Anh văn Kiêm Bá và trường Trung học nữ sinh Tân Á học tập. Thời gian đầu, cô còn giữ được liên hệ với một số đồng chí cách mạng quen biết ở cơ sở huấn luyện phụ vận. Về sau do Quốc dân đảng ngày càng đàn áp tàn bạo các đảng viên cộng sản, các đồng chí mà Tăng Tuyết Minh quen biết đều rời Quảng Châu, mối liên hệ về tổ chức của cô với đoàn viên Ðoàn Thanh niên xã hội chủ nghĩa Trung Quốc cũng bị gián đoạn. Tháng 7 năm 1929, Tăng Tuyết Minh rời Quảng Châu, về quê nhà của mẹ ở Thuận Ðức, làm nữ hộ sinh tại một trạm y tế tư ở thị trấn Lặc Lưu. Ðầu năm 1930, cô lại chuyển đến làm nữ hộ sinh ở y xá Quần An của Dư Gia Viên, thị trấn Lạc Tòng, huyện Thuận Ðức.

Thời gian này, Hồ Chí Minh có hai lần nhờ người mang thư và gửi thư liên hệ với Tăng Tuyết Minh, nhưng đều không kết quả. Sau khi đến Thái Lan, Người lấy tên là Ðào Cửu, tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức cách mạng trên đất Thái Lan.

Thư của Nguyễn ái Quốc (Lý Thuỵ) gửi Tăng Tuyết Minh, bị Mật thám Ðông Dương chặn được ngày 14.8.1928, hiện tàng trữ tại C.A.O.M. (Aix en Pro-vence). Xuất xứ : Daniel Hémery, HOCHIMINH De L'Indochine au Vietnam, Gallimard, Paris 1990, tr.145. Không rõ người mang thư sơ suất, hay là anh ta vốn dĩ không thể tin cậy, mà bức thư đó đã nhanh chóng lọt vào tay cơ quan mật thám Pháp ở Ðông Dương, cuối cùng thành vật lưu trữ tại Cục hồ sơ can án quốc gia của nước Pháp. Năm 1990, trong dịp kỉ niệm 100 năm sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhà xuất bản Gallimard ở Pháp đã cho ra mắt bạn đọc cuốn sách Hồ Chí Minh - từ Ðông Dương đến Việt Nam, giữa tranh ảnh minh hoạ trong sách có bản in chụp bức thư bằng Trung văn nói trên của Hồ Chí Minh gửi cho vợ, với những dòng thuyết minh : “ Thư của Nguyễn ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) viết cho vợ.Chuyển tới cơ quan đặc vụ Ðông Dương ngày 14 tháng 8 năm 1928 ”.

Một tác giả tên là Bùi Ðình Kế trên báo Nhân Dân của Việt Nam, số ra ngày 19 tháng 5 năm 1991 đã dẫn lại bức thư đó trong bài nhan đề Về một tài liệu liên quan sinh hoạt cá nhân của Nguyễn Ái Quốc. Bài báo đã phân tích và phỏng đoán bức thư đó liệu có phải của Hồ Chí Minh hay không. Tuy nhiên, đã không đưa ra được kết luận rõ ràng. Thực ra, bức thư đó chính xác là do Hồ Chí Minh viết. Một là, đối chiếu với những thư cảo Trung văn của Hồ Chí Minh thì bức thư đó hoàn toàn ăn khớp với bút tích của người. Hai là, lúc Hồ Chí Minh viết bức thư đó cách thời điểm chia tay với Tăng Tuyết Minh đúng là hơn một năm như nói ở trong thư. Ba là, tên kí dưới thư thuỴ đúng là bí danh Hồ Chí Minh dùng trong thời gian ở Quảng Châu. Bốn là, Tăng Tuyết Minh từ nhỏ mất cha, chỉ có mẹ lúc ấy còn sống, và Hồ Chí Minh nắm rõ điều đó, nên trong thư chỉ vấn an nhạc mẫu. Căn cứ những điều trên, bức thư đó do Hồ Chí Minh viết, không còn nghi ngờ gì nữa. Thư viết xong đã rơi vào tay mật thám Pháp, đó là điều Hồ Chí Minh đã không thể lường trước được.
Lúc ấy, Hồ Chí Minh công tác ở Thái Lan đến tận tháng 11 năm 1929. Sau đó, Người được Quốc tế Cộng sản cử đến Hương Cảng, triệu tập hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản. " Hội nghị thống nhất " đã khai mạc tại Hương Cảng ngày 3 tháng 2 năm 1930, chính thức tuyên bố thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam. Sau hội nghị, tháng 3 năm đó Hồ Chí Minh trở lại Thái Lan, tháng 4 lại đến Hương Cảng. Sau, nhiều lần lại từ Hương Cảng đến Thượng Hải, tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức cách mạng trong Việt kiều tại tô giới Pháp ở Thượng Hải. Lúc ấy, các đảng viên cộng sản Việt Nam Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng... cũng đang hoạt động trong Việt kiều ở Thượng Hải. Ðầu tháng 5 năm 1930, Hồ Chí Minh lại viết một bức thư nữa từ Thượng Hải gửi Tăng Tuyết Minh. Bức thư này gửi qua Quảng Châu cho Tăng Tuyết Minh lúc ấy đang làm nữ hộ sinh ở cơ sở dịch vụ y tế tại Gia Dư Viên, thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Ðức. Nội dung yêu cầu Tăng Tuyết Minh mau mau đến Thượng Hải đoàn tụ. Trong thư có hẹn kì hạn và nói rõ nếu quá hạn đó mà Tăng Tuyết Minh không đến sẽ đành một mình xuất ngoại. Thế nhưng, với cả bức thư này nữa, cũng đã xảy ra chuyện ngoài ý muốn, Tăng Tuyết Minh cũng không sao nhận được. Tài liệu hồi ức do Tăng Tuyết Minh viết cũng như lời kể lại của bà qua thư từ trao đổi với tác giả bài này đều nói tới hoàn cảnh của sự cố này.

Tháng 7 năm 1929 Tăng Tuyết Minh sau khi đã rời Quảng Châu, làm nữ hộ sinh ở trạm y tế của bác sĩ Dư Bác Văn mới mở ra ở thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Ðức, đến cuối năm. Ðầu năm sau, cô lại chuyển đến làm nữ hộ sinh tại y xá Quần An của Sa Khiếu ở thị trấn Lạc Tòng cũng huyện Thuận Ðức. Bức thư của Hồ Chí Minh chuyển đến cho trạm y tế của Dư Bác Văn ở thị trấn Lặc Lưu thì lúc ấy Tăng Tuyết Minh đã rời đi rồi. Trưởng trạm y tế Dư Bác Văn chẳng những không kịp thời chuyển thư đến Tăng Tuyết Minh mà ngược lại còn tự ý mở thư trước mặt vợ mình, lại còn gọi thêm cả nữ y sĩ Hoàng Nhã Hồng, xem trộm nội dung thư, sau đó đem đốt đi. Nửa năm sau khi xảy ra chuyện đó, Tăng Tuyết Minh trở lại Quảng Châu thăm mẹ và nhận lời mời đến dự lễ khai trương cơ sở y tế tại nhà một bạn đồng học cũ. Tại đây cô bất ngờ gặp laại nữ y sĩ HoàngNhã Hồng, người đã từng làm việc cùng tại thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Ðức. Nữ y sĩ đó đã đem toàn bộ sự việc tuôn ra hết ngọn ngành. Lúc ấy so với thời hạn Hồ Chí Minh hẹn gặp nhau ở Thượng Hải thì đã qua nửa năm. Tăng Tuyết Minh chỉ còn biết kêu khổ khôn nguôi, nuốt nước mắt vào lòng. Như vậy con người kia đã gieo tại hoạ khiến Tăng Tuyết Minh mất đi cơ hội được trở lại bên chồng, cũng gây cho cô một bi kịch suốt đời trong tương lai.

Ðến cuối năm 1931, Tăng Tuyết Minh cũng có được một cơ hội gặp Hồ Chí Minh nhưng lại là tại toà án của nhà đương cục Anh ở Hương Cảng xét xử Hồ Chí Minh. Tăng Tuyết Minh chỉ có thể nhìn thấy Hồ Chí Minh từ rất xa, còn Hồ Chí Minh thì hoàn toàn không biết vợ mình có mặt tại toà. Cuối những năm 20 - đầu 30 hoàn cảnh của các nhà cách mạng Việt Nam hoạt động tại Hương Cảng rất tồi tệ. Trong hàng ngũ cách mạng có kẻ phản bội, các cơ sở bí mật bị phá hoại, chính quyền thực dân Pháp và nhà đương cục Anh ở Hương Cảng cấu kết với nhau bắt bớ các chiến sĩ cách mạng. Hồ Tùng Mậu bị các nhà đương cục Anh bắt rồi giao cho mật thám Pháp " dẫn độ " về Việt Nam giam cầm. Hồ Chí Minh cũng bị các nhà đương cục Anh bắt ngày 5-6-1931, lí do là làm tay sai cho hội Lao Liên, âm mưu tiến hành hoạt động phá hoại tại Hương Cảng. Sau khi Hồ Chí Minh bị bắt, Quốc tế Cộng sản thông qua hội Chữ thập đỏ quốc tế kêu gọi cứu giúp. Tổ chức đó lại mời một luật sư tiến bộ người Anh ở Hương Cảng là ông Loseby bào chữa cho Hồ Chí Minh. Sau vài tháng bị giam giữ, Hồ Chí Minh bị đưa ra xét xử. Lần này đến Hương Cảng, Người lấy bí danh là Tống Văn Sơ. Nhưng sau khi bị bắt nhà đương cục Anh đã phát hiện đó chính là Lý Thuỵ, cũng tức là Nguyễn Ái Quốc. Lúc ấy rất nhiều báo Hương Cảng đưa tin. Cùng thời gian này, thân mẫu Tăng Tuyết Minh đang bị bệnh. Cô cùng mẹ đến Hương Cảng trú tại cơ sở chữa bệnh của anh cả là Tăng Cẩm Nguyên. Ðọc được tin toà sẽ xét xử chồng mình là Lý Thuỵ liền nhờ bạn bè cũ cùng đến toà. Người đến dự thính xét xử rất đông. Tăng Tuyết Minh phải ngồi nghe cách xa phòng xử án. Nhìn thấy hình dáng tiều tuỵ của người chồng xa cách đã năm năm mà lòng khôn ngăn trăm mối ngổn ngang. Nhưng do khoảng cach khá xa, lại giữa toà ánm vợ chồng chẳng những vô phương trò chuyện mà Hồ Chí Minh thậm chí chắc chắn không hề biết Tăng Tuyết Minh đang ở trước mắt mình. Tăng Tuyết Minh muốn đến thăm nom nhưng có lời truyền ra rằng đây là một trọng phạm chính trị không được phép thăm hỏi, gặp gỡ. Tăng Tuyết Minh hỏi dò nhiều nơi và biết được rằng hội Hồng thập tự quốc tế và luật sư Loseby đang tìm cách cứu Hồ Chí Minh, tình cảnh có lẽ cũng sẽ chuyển biến, đành cùng thân mẫu trở về Quảng Châu, lòng hoang mang không biết làm sao.
Tháng 2 năm 1932, thân mẫu Lương thị của Tăng Tuyết Minh bệnh nặng qua đời, hưởng thọ 76 tuổi. Tăng Tuyết Minh chuyển đến công tác ở y xá Quần An ở huyện Ðông Hoàn, vốn là cơ cấu phân chi của y xá Quần An huyện Thuận Ðức, vẫn làm nữ hộ sinh. Lúc này, cha mẹ cô đều đã mất, anh em đông nhưng người thì đi xa, người thì chết sớm, Tăng Tuyết Minh côi cút độc thân, thật là buồn khổ. Năm 1943, sau tiết xuân, thầy giáo cũ là Trương Tố Hoa mở tại đường Long Tân ở Quảng Châu một phòng chẩn trị, có lời mời Tăng Tuyết Minh đến giúp sức. Cô bèn xin thôi việc ở Ðông Hoàn, đến phòng chẩn trị của Trương Tố Hoa làm nữ hộ sinh và làm việc ở đó cho đến tận ngày (Trung Quốc) giải phóng. Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, chính phủ tiến hành cải tạo và chỉnh đốn các cơ sở kinh tế tư nhân, thành lập các trạm vệ sinh bảo vệ sức khoẻ tại các khu. Tăng Tuyết Minh hưởng ứng lời kêu gọi của chính phủ, đã đến công tác tại trạm số 8 ở khu vực phía Tây.

Về sau trạm này đổi gọi là Viện Vệ sinh Kim Hoa (nay là Viện Y học Trung y khu Lệ Loan). Tăng Tuyết Minh công tác ở đó, hành nghề nữ hộ sinh đến tận năm 1977 khi về hưu.
Thế là từ sau lần trông thoáng thấy chồng ở Hương Cảng, không bao giờ Tăng Tuyết Minh gặp lại Nguyễn Ái Quốc nữa. Theo tác giả Hoàng Tranh, tháng 5-1950, thấy hình Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên Nhân dân Nhật báo cùng với tóm tắt tiểu sử, bà tin chắc Hồ Chí Minh chính là chồng mình, nhất là sau khi tìm mua được cuốn Truyện Hồ Chí Minh (nhà xuất bản Tân Hoa). Bà đã " báo cáo với tổ chức ”, đồng thời gửi mấy bức thư cho chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh là Hoàng Văn Hoan. Những bức thư ấy “ đều như đá chìm biển khơi (...) thậm chí chúng có được gửi ra khỏi Quảng Châu hay không là điều còn đáng hoài nghi ". Tuy nhiên, một cán bộ lãnh đạo Quảng Châu đã tới gặp Tăng Tuyết Minh, trao cho bà lá thư của bà Thái Sướng (một trong những người đã tới dự tiệc cưới năm 1926 cùng với bà Ðặng Dĩnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai) " chứng thực Hồ Chí Minh chính là Lý Thuỵ cũng tức là chồng Tăng Tuyết Minh .

Bà Tăng Tuyết Minh đã công tác cho đến năm 1977 mới về hưu, sau 52 năm tận tuỵ với nghề nữ hộ sinh. Theo Hoàng Tranh, gia đình bà theo đạo Công giáo từ đời ông nội, và bà " thường xuyên đi lễ ở giáo đường ". Bà " có thói quen ăn uống đạm bạc, không dùng cá thịt ", cuộc sống " vô cùng giản dị ", " luôn vui vẻ giúp người "…

11 giờ 15 phút ngày 14 tháng 11 năm 1991, sau 86 năm trải qua con đường đầy lận đận long đong, tại nơi cư ngụ [687 đường Long Tân Ðông, Quảng Châu], cụ bà Tăng Tuyết Minh đã bình yên nhắm mắt, thanh thản trút hơi thở cuối cùng.
HỒ CHÍ MINH VÀ HỘI TAM ĐIỂM

Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử hiện đại hoạt động kín đáo, thường thay tên đổi họ, và thường che giấu hành tung của mình. Một trong những điều được ông che giấu suốt đời là việc ông gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) Pháp năm 1922. Hồ Chí Minh đã dùng tên khác, viết sách để tự ca tụng mình, nhưng hoàn toàn không hé lộ một tý nào về việc ông gia nhập hội Tam Điểm. Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) cũng tránh né không nói đến trong các bản tiểu sử của Hồ Chí Minh.
Tài liệu bằng tiếng Việt đầu tiên và duy nhất lưu hành ở Hà Nội, nói về việc Hồ Chí Minh gia nhập Hội Tam Điểm có lẽ là sách Nguyễn Ái Quốc tại Pari 1917-1923, Nxb: Thông Tin Lý Luận ấn hành năm 1989, tác giả là bà Thu Trang. Trong sách nầy, bà Thu Trang viết rằng: “Theo một mật báo đã ghi ngày 14 tháng 6 năm 1922, Nguyễn Ái Quốc được chấp nhận vào Hội Franc-Maçonnerie (Tam điểm)...”
Mẩu tin nầy không bị ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương đảng CSVN kiểm duyệt hay gạch bỏ, có thể nhờ câu tiếp theo của bà Thu Trang: “Điều nầy chứng tỏ là Nguyễn Ái Quốc đã đến với bất cứ tổ chức chính trị nào có tính cách tiến bộ. Mặc dù theo truyền thống, Hội trên chỉ dành cho giới giáo sĩ, quý tộc hoặc những nhà trí thức bác học tên tuổi v.v... Nguyễn Ái Quốc được chấp nhận vào hội nầy là do được sự giới thiệu (ít nhất phải có hai hội viên cũ giới thiệu) như một nhà báo lỗi lạc, hay một nhà cách mạng đã có tên tuổi? Khó mà đoán được...”
Hội Tam Điểm (Franc - Maçonnerie do tiếng Anh: Freemasonry) nguyên là một hội đoàn giáo dục, nhắm truyền bá cho hội viên một triết lý sống có đạo đức. Xuất hiện ban đầu ở Anh vào thế kỷ 17 như một nhóm nghề nghiệp (thợ nề, thợ chẻ đá). Về sau nhóm trở thành một hội đoàn hướng đến lý tưởng cao cả như bác ái (fraternity), bình đẳng (equality) và hoà bình (peace). Dần dần hội cho gia nhập cả những người giàu có hoặc có địa vị trong xã hội. Lý tưởng chấp nhận tự do tín ngưỡng và bình đẳng giữa mọi người của hội Tam Điểm đi đôi với chủ nghĩa tự do thời thế kỷ 18. Hội Tam Điểm phổ biến ở các nước nói tiếng Anh, bị Giáo hội Ky-Tô giáo La Mã chống đối, vì Giáo hội cho rằng hội Tam Điểm tranh quyền với Giáo hội. Do đó, hội Tam Điểm không được chấp nhận ở các quốc gia theo Ky-Tô giáo La Mã. Dầu vậy, dần dần hội Tam Điểm phát triển khắp nơi. Hiện nay, trên thế giới, hội Tam Điểm đông nhất là hội Hoa Kỳ, chiếm khoảng 75% hội viên toàn cầu.
Hội Tam Điểm phóng khoáng, tự do, trong khi đảng Cộng sản là một tổ chức chính trị độc tài và hai bên rất chống đối nhau. Nguyễn Ái Quốc đã gia nhập đảng Cộng Sản Pháp từ cuối năm 1920 đầu năm 1921. Nguyễn Ái Quốc chuyển qua hội Tam Điểm là hội đối nghịch với đảng CS vào năm 1922, đời sống Nguyễn Ái Quốc tại Paris rất khó khăn. Tình trạng nghèo khó nầy được ông mô tả lại khá rõ trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch dưới bút danh Trần Dân Tiên. Nguyễn Ái Quốc vào hội Tam Điểm để tìm kiếm một cơ hội thăng tiến mưu sinh.
Nguyễn Ái Quốc vào Hội Tam Điểm ngày 24-6-1922, thì trong tháng 7-1922, Nguyễn Ái Quốc hai lần gặp gỡ Phạm Quỳnh tại Paris, cũng là một nhân vật Tam Điểm Việt Nam. Nguyên lúc đó, vua Khải Định (trị vì 1916-1925) hướng dẫn phái đoàn Việt Nam sang dự cuộc đấu xảo (hội chợ triển lãm) ở Marseille (Pháp). Phạm Quỳnh tháp tùng theo phái đoàn nầy. Lúc đó, Phạm Quỳnh là một nhà báo, nghị viên Hội đồng thành phố Hà Nội, và đã gia nhập Hội Tam Điểm ở Hà Nội.
Theo lời mời của chính quyền Pháp, Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922 về đề tài “Sự tiến hóa về đường tinh thần của dân Việt Nam từ ngày đặt bảo hộ đến giờ”. Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp.
Vài tháng sau khi gia nhập Hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quốc ra khỏi hội nầy và suốt đời giấu kín việc vào hội Tam Điểm vì một điều dễ hiểu, hội Tam Điểm đối nghịch với đảng CS. Vậy phải chăng vì Phạm Quỳnh biết rõ chuyện Nguyễn Ái Quốc gia nhập hội Tam Điểm ở Paris sau hai cuộc tiếp xúc vào tháng 7-1922, mà Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc ra lệnh thủ tiêu Phạm Quỳnh ngày 6-9-1945, tại một địa điểm cách Huế 20 km, để giấu kín bí mật của mình.
Lý do chính Nguyễn Ái Quốc dứt điểm hội Tam Điểm, vì lúc đó ông được đại diện Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản mời sang Nga hoạt động. Lời mời nầy vẽ ra trước mắt ông một cơ hội thăng tiến mưu sinh mới. Nguyên vào tháng 10-1922, D. D. Manuilsky, đại diện ĐTQTCS, từ Moscow qua Paris dự Đại hội kỳ 2 đảng CS Pháp. Nhân đó Manuilsky mời Nguyễn Ái Quốc sang Moscow tham gia Hội nghị Quốc tế Nông dân vào năm 1923. Sự việc nầy có nghĩa là Manuilsky chọn Nguyễn Ái Quốc để đưa qua Liên Xô huấn luyện. Nhận được lời mời Manuilsky, Nguyễn Ái Quốc vĩnh biệt hội Tam Điểm.
Ra khỏi hội Tam Điểm để gia nhập một tổ chức khác thích hợp với mình hơn, là chuyện bình thường. Chuyện bất bình thường ở đây là vào tháng 6 tuyên thệ gia nhập hội Tam Điểm, thì khoảng chưa đầy nửa năm sau, Nguyễn Ái Quốc lại “thẳng tay chỉ trích hội ấy với những lời lẽ hết sức cứng rắn. Ngay từ lúc nầy, mới bước vào con đường chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã tự chứng tỏ là một con người “cơ hội chủ nghĩa:Bên cạnh sách bằng tiếng Việt, bà Thu Trang, với tên Thu Trang-Gaspard viết lại chuyện Nguyễn Ái Quốc ở Paris bằng tiếng Pháp, nhan đề sách là Hồ Chí Minh à Paris (1917-1923), do Nxb. Éditions L'Harmattan ấn hành tại Paris năm 1992, nội dung giống sách trên.
Về việc Nguyễn Ái Quốc gia nhập hội Tam Điểm, ngoài những tài liệu của bà Thu Trang trên đây, còn có một số tài liệu chi tiết hơn của các tác giả Pháp. Một trong những người nầy là Jacques Dalloz. Ông viết sách Francs-maçons d'Indochine, Paris: Éditions Maçonniques de France, 2002. Sách nầy trình bày đầy đủ những nhân vật Tam Điểm ở Việt Nam, trong đó có Phạm Quỳnh và Nguyễn Ái Quốc.
DANH XƯNG NGUYỄN ÁI QUẤC (QUỐC) và HỒ CHÍ MINH
Danh xưng Nguyễn Ái Quấc (Quốc) lúc đầu không phải là tên một người, mà là tên chung của bốn người. Đó là Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành. Cả bốn ông (Trinh, Trường, Truyền, Thành) cùng dùng một bút hiệu chung là Nguyễn Ái Quốc, đồng ký bản “Revendications du peuple annamite” [Thỉnh nguyện thư của dân tộc Việt], bằng Pháp văn do Phan Văn Trường viết, gởi cho các cường quốc trên thế giới, đang họp Hội nghị Versailles (Paris) sau thế chiến thứ nhất, bắt đầu từ 18-1-1919. Thỉnh nguyện thư của các ông xuất hiện lần đầu trên báo L'Humanité [Nhân Đạo] ngày 18-6-1919.
Trong bốn người cùng dùng chung biệt hiệu (Nguyễn Ái Quốc), Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường sống và hoạt động chính trị tại Pháp khá lâu, đang bị mật thám Pháp theo dõi, không tiện ra mặt. Nguyễn Thế Truyền (1898-1969) là sinh viên du học, đang hưởng học bỗng của Pháp để theo học ngành hóa học, nên không thể công khai chống Pháp.
Chỉ có Nguyễn Tất Thành là người mới đến, chưa bị mật thám chú ý. Nguyễn Tất Thành tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh tại Nghệ An, con ông Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929) và bà Hoàng Thị Loan. Lúc nhỏ, Nguyễn Sinh Cung học chữ Nho, rồi chuyển qua tân học, theo chương trình Pháp. Sau khi đậu tiểu học khoảng năm 17 tuổi, Nguyễn Sinh Cung vào học lớp nhất niên (năm thứ nhất bậc trung học tức lớp 6 ngày nay) trường Quốc Học (Huế) năm 1907.
Một người bạn học cùng lớp với Nguyễn Sinh Cung ghi nhận lúc học Quốc Học, Cung vẫn mang tên nầy. Tài liệu nầy cho biết thêm rằng đang học lớp nhất niên trường Quốc Học. Cung cùng học sinh Quốc Học tham gia biểu tình trong vụ Trung Kỳ dân biến tại Huế tháng 4-1908. Pháp đàn áp cuộc dân biến. Cung lo sợ bị bắt, liền bỏ học, trốn vào nam. Ông ghé Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, rồi làm giáo viên dạy Quốc ngữ và chữ Pháp ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) vào năm 1910, với tên mới là Nguyễn Tất Thành. Như vậy, có thể Nguyễn Sinh Cung đổi tên thành Nguyễn Tất Thành trong khoảng thời gian nầy.
Trong khi đó, phụ thân của Nguyễn Sinh Cung là Nguyễn Sinh Huy (tên cũ là Nguyễn Sinh Sắc) đang làm thừa biện [thư ký] bộ Lễ ở Huế, được bổ làm tri huyện Bình Khê (Bình Định) tháng 5-1909, tức được thăng chức. Điều nầy chứng tỏ Pháp và triều đình Huế lúc đó không quan tâm đến hoạt động của học sinh Nguyễn Sinh Cung, nên không ghép Nguyễn Sinh Huy vào tội không biết dạy con và mới cho phụ thân của Cung thăng quan. Năm sau (1910), quan huyện Nguyễn Sinh Huy dùng roi mây đánh chết người nên bị sa thải.
Dạy học tại trường Dục Thanh được nửa năm, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn, lấy tên là Ba, xin làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche-Tréville và theo tàu nầy rời Sài Gòn, đi Pháp ngày 5-6-1911. Ông đặt chân đến Marseille, hải cảng miền Nam nước Pháp, ngày 6-7-1911.Sau hơn hai tháng có mặt ở Pháp, Nguyễn Tất Thành viết tay hai lá đơn đề ngày 15-9-1911, có nội dung giống nhau; một gởi cho tổng thống Pháp, một gởi cho bộ trưởng bộ Thuộc địa Pháp, xin vào học École Coloniale (Trường Thuộc địa) ở Paris, nơi đào tạo những quan chức cho các nước thuộc địa Pháp. Đơn của Nguyễn Tất Thành bị người Pháp từ chối.
Nguyễn Tất Thành tiếp tục đi tàu biển một thời gian. Sau đó, ông cư trú ở Luân Đôn (London), thủ đô của Anh. Giữa năm 1919, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, tiếp xúc với nhóm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Nhờ sự giới thiệu của ba người nầy, Thành bắt đầu làm quen với giới chính trị Paris, nhất là giới chính trị đối lập với chính phủ Pháp.
Sau khi cả bốn người cùng ký bản “Revendications du peuple annamite”, ba người trước tránh mặt vì lý do an ninh, Nguyễn Tất Thành thường đại diện nhóm, dùng tên Nguyễn Ái Quốc để liên lạc với báo giới và chính giới. Có thể do đó, dần dần Thành dùng luôn bút hiệu Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của ông. Trong suốt cuộc đời còn lại, Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Ái Quốc còn có cả vài chục tên khác nhau, cho đến khi ông lấy tên cuối cùng là Hồ Chí Minh.
Có một điểm đáng chú ý: Nguyễn Sinh Cung bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng tên Nguyễn Ái Quốc và kết thúc sự nghiệp chính trị bằng tên Hồ Chí Minh. Hai tên nầy đều do Nguyễn Sinh Cung chiếm dụng của người khác.
Nguyên tại Nam Kinh (Trung Hoa), Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng Việt Nam, đã lập ra Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh. Khi đến Hồ Nam năm 1937, Hồ Học Lãm lấy bí danh là Hồ Chí Minh. Năm 1938, Nguyễn Sinh Cung, lúc đó lấy bí danh là Hồ Quang, từ Liên Xô qua Trung Hoa lần thứ ba. Theo lệnh của Hồ Quang, những đảng viên cộng sản như Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), Lý Quang Hoa (Hoàng Văn Hoan)... len lỏi vào hàng ngũ của Hồ Học Lãm. Hồ Học Lãm già yếu, ít hoạt động. Các đảng viên cộng sản liền núp dưới danh hiệu Việt Minh để hoạt động cho đảng CS, rồi dần dần chiếm dụng danh xưng nầy. Thủ lãnh Hồ Quang, cũng chiếm dụng luôn bí danh thủ lãnh Hồ Chí Minh từ năm 1942.
Nguyễn Sinh Sắc, phụ thân của Hồ Chí Minh, không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm, mà là con ông Hồ Sĩ Tạo. Trước khi đám cưới, bà vợ của ông Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên ông Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của ông Nguyễn Sinh Sắc mà thôi. Theo Trần Quốc Vượng, Hồ Sĩ Tạo thương đứa con rơi, mới gởi gắm Nguyễn Sinh Sắc vào học trương Quốc tử giám ở kinh đô Huế. Trần Quốc Vượng còn viết rằng: "Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm”.
NGÀY SINH CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ HỒ CHÍ MINH
Khi đến Pháp năm 1911, Nguyễn Sinh Cung dưới tên mới là Nguyễn Tất Thành, làm đơn xin vào học trường Thuộc Địa Paris. Trong đơn, Nguyễn Tất Thành tự khai là sinh năm 1892. Nay trong đơn vào hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quấc tức Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung, tự khai là sinh ngày 15-2-1895. Theo tài liệu của đảng CSVN, Hồ Chí Minh tức Nguyễn Sinh Cung lúc nhỏ, sinh ngày 19-5-1890. Ngày sinh nầy được đưa ra chính thức năm 1946, khi Hồ Chí Minh mới cầm quyền chưa được một năm.
Nhìn vào ba ngày hay năm sinh do chính Nguyễn Sinh Cung, tức Nguyễn Tất Thành, rồi Nguyễn Ái Quấc, rồi Hồ Chí Minh, tự tay viết ra, rõ ràng hoàn toàn không giống nhau cả năm lẫn ngày tháng. Năm 1911, khi xin vào học trường Thuộc Địa, có thể lúc đó phải theo điều kiện tuổi tác ghi danh vào học, Nguyễn Tất Thành đề là sinh năm 1892, tức vừa trên 18 tuổi vào năm 1911. Năm 1922, khi xin vào hội Tam Điểm, không hiểu dựa vào đâu, Nguyễn Ái Quấc ghi rằng ông ta sinh năm 1895, tức 27 tuổi vào năm 1922.
Chuyện ngày 19-5, sinh nhật Hồ Chí Minh là một thủ thuật chính trị. Nguyên sau khi Nhật Bản đầu hàng ngày 14-8-1945, theo quyết định của tối hậu thư Potsdam ngày 26-7-1945, quân đội Nhật bị giải giới bởi quân Trung Hoa ở bắc vĩ tuyến 16 và bởi quân Anh ở Nam vĩ tuyến 16. Tối hậu thư nầy không nói đến ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân Nhật bị giải giới, nên Pháp liền lợi dụng kẻ hở nầy, trở lại Đông Dương.Ở nam vĩ tuyến 16 (từ Tam Kỳ trở vào), Pháp theo quân Anh, đến Sài Gòn rồi dần dần tái chiếm miền Nam. Ở bắc vĩ tuyến 16, Pháp thương lượng với Trung Hoa, và đi đến hiệp ước Trùng Khánh ngày 28-2-1946, theo đó Trung Hoa chịu rút quân từ ngày 1 đến 15-3-1946, và chậm nhất là ngày 31-3-1946. Ngược lại, Pháp trả về cho Trung Hoa các tô giới Pháp ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Đông, Quảng Châu Loan, bán cho Trung Hoa thiết lộ Vân Nam, sửa đổi quy chế người Hoa ở Đông Dương, miễn thuế người Hoa ở Hải Phòng, và người Hoa chuyên chở hàng hóa ngang qua Bắc Việt sẽ khỏi phải chịu thuế.Sau hiệp ước nầy, sáng sớm ngày 6-3-1946, sư đoàn 9 bộ binh Pháp đến Hải Phòng, dưới sự chỉ huy của trung tướng Jean Valluy. Túng thế, Hồ Chí Minh liền báo tin cho Pháp biết là ông ta đồng ý ký hiệp ước với Pháp. Vào buổi chiều cùng ngày, tại số 38 đường Lý Thái Tổ, Hà Nội, Hồ Chí Minh, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, vội vàng ký thỏa ước Sơ bộ với Pháp. Cùng ký bản văn nầy, ngoài Hồ Chí Minh, còn có Vũ Hồng Khanh (lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng), phó chủ tịch Quân sự uỷ viên hội của chính phủ. Về phía chính phủ Pháp, đại diện là Jean Sainteny.
Trong khi đó, từ tháng 9-1945, quân đội Pháp theo quân Anh đến Đông Dương, chiếm Nam Lào, nhưng không tiến lên phía Bắc, vì vùng nầy do quân đội Trung Hoa giữ. Sau hiệp ước Trùng Khánh ngày 28-2-1946, quân Trung Hoa rời khỏi Lào ngày 12-3-1946. Pháp liền chiếm Vạn Tượng (Vientiane hay Viang Chan) ngày 23-4-1946.
Giải quyết xong việc Trung Hoa chịu rút quân khỏi Việt Nam, từ ngày 14-5-1946, đô đốc D'Argenlieu, cao uỷ Pháp tại Đông Dương, bắt đầu mở cuộc kinh lý khu vực phía bắc vĩ tuyến 16 lần đầu tiên. D'Argenlieu đến Vạn Tượng ngày 17-5-1946, và dự tính sẽ đến Hà Nội vài ngày sau.
Đô đốc D'Argenlieu là cao uỷ Pháp tại Đông Dương, nghĩa là vừa đại diện nước Pháp, vừa được xem là nhà lãnh đạo các nước Đông Dương. Việt Nam mới ký thỏa ước Sơ bộ 6-3-1946 theo đó điều 1 ghi rằng Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Hồ Chí Minh đón rước D'Argenlieu nghĩa là đón rước quốc trưởng đến thăm Hà Nội.
Việc Hồ Chí Minh ký thỏa ước Sơ bộ với Pháp, chính thức hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Pháp tại Việt Nam, hoàn toàn trái ngược với lời thề diệt Pháp của Hồ Chí Minh khi trình diện chính phủ vào ngày 2-9-1945, gây sự bất bình trong các đảng phái chính trị và trong đại đa số quần chúng. Nay lại đón rước D'Argenlieu đến Hà Nội và phải theo đúng nghi thức quốc gia, ít nhất phải có treo cờ chào mừng. Chắc chắn điều nầy càng gây thêm bất bình nơi quần chúng. Tuy nhiên, nhà cầm quyền VM vẫn ra lệnh treo cờ trong ba ngày 18, 19 và 20-5-1946. Việt Minh cho biết treo cờ không phải để chào đón đô đốc D'Argenlieu, mà để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, ngày 19-5. D'Argenlieu đến Hà Nội chiều ngày 18-5-1946. Hồ Chí Minh và D'Argenlieu gặp nhau hai lần trong hai ngày liên tiếp 19 và 20-5-1946, nhưng không đạt kết quả đáng kể.
Trước sự kiện nầy, có dư luận cho rằng Hồ Chí Minh lúng túng trong việc phải treo cờ đón D'Argenlieu cho đúng nghi thức, mới có sáng kiến đặt chuyện treo cờ để mừng sinh nhật, nhắm làm cho ông ta và chính phủ của ông ta khỏi mất thể diện, đồng thời làm cho dân chúng khỏi bất bình. Dư luận nầy có phần hữu lý ở chỗ trước đó, Hồ Chí Minh không bao giờ nói đến chuyện sinh nhật của mình, nay tự nhiên bày ra chuyện mừng sinh nhật. Hơn nữa, có điểm đáng chú ý là trong đơn xin vào hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quấc ghi rằng ông ta sinh ngày 15-2-1895; nay Hồ Chí Minh lại công bố sinh nhật của ông ta là 19-5.
Không ai lấy làm lạ về việc Nguyễn Sinh Cung đã đổi nhiều tên, nhiều họ, nhiều năm sinh, tháng đẻ khác nhau, cho đến tên cuối cùng là Hồ Chí Minh với sinh nhật là ngày 19-5-1890. Điều đặc biệt là ngày chết của Hồ Chính Minh cũng không phải là một ngày. Người Việt Nam xem ngày chết rất quan trọng, thường tổ chức kỵ giỗ để tưởng nhớ người quá cố. Thế mà ngày chết của Hồ Chí Minh cũng được đảng Lao Động chính trị hóa, để phỉnh lừa dân chúng.
Nhiều người cho rằng vì hoạt động chính trị, Nguyễn Sinh Cung phải hành động như thế. Điều nầy chẳng có gì sai trái. Vấn đề là những hoạt động chính trị của Nguyễn Sinh Cung đã đem lại được gì cho đất nước Việt Nam?
Nguyễn Sinh Cung tức Hồ Chí Minh nói rằng ông tranh đấu để giải phóng dân tộc. Cái giá của việc giải phóng theo kiểu Hồ Chí Minh mà dân tộc Việt phải trả thật quá cao. Nếu chọn lựa đi một con đường khác, không phải là con đường cộng sản, thì có thể tốt hơn. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam ra khỏi tay thực dân Pháp thì rơi vào tay thực dân nội địa (autocolonisation) [chữ của nhà báo Pháp Jean Lacouture], tức đảng CSVN, còn ác độc hơn thực dân Pháp. Giải phóng là cởi bỏ xiềng xích thực dân chứ không phải thay đổi xiềng xích thực dân, và để tiến lên chứ không phải để đi xuống.
Hồ Chí Minh nói rằng ông ta chống Pháp để giành lại độc lập? Nước Việt Nam càng ngày càng nhượng bộ và lệ thuộc Trung Quốc. Hồ Chí Minh bảo rằng ông ta tranh đấu cho tự do dân chủ? Dân chủ của Hồ Chí Minh là dân chủ theo kiểu “đảng cử dân bầu”. Còn về tự do, sau năm 1954, khi các nhà trí thức, văn thi sĩ Bắc Việt yêu cầu trả văn học nghệ thuật lại cho văn nghệ sĩ, nghĩa là để cho văn nghệ sĩ được tự do sáng tác, thì Hồ Chí Minh và đảng Lao Động trả lời bằng cách bắt bớ, giam cầm, đày đọa cho đến cuối đời hàng lọat trí thức, văn thi sĩ, mà rõ nét nhất là vụ Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội năm 1956.
Hồ Chí Minh cải cách ruộng đất, hứa hẹn để thăng tiến đời sống nông dân? Hơn hai trăm ngàn người chết vì cải cách ruộng đất, toàn bộ đất đai của dân chúng do cha ông để lại bị quốc hữu hóa vào tay nhà nước cộng sản. Hồ Chí Minh đánh Mỹ để cứu nước? Thật ra là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc...
Đó là những câu trả lời về mục đích cuộc đời chính trị của một nhân vật lịch sử thay tên đổi họ, như tắc kè thay màu da.

TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN (1948)

LỜI MỞ ĐẦU

Xét rằng việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới,
Xét rằng việc coi thường và khinh miệt nhân quyền đã đưa tới những hành động dã man làm phẫn nộ lương tâm nhân loại, và việc đạt tới một thế giới trong đó mọi người được tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, đượïc giải thoát khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, được tuyên xưng là nguyện vọng cao cả nhất của con người,
Xét rằng điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền,
Xét rằng điều cốt yếu là phải phát triển những tương quan hữu nghị giữa các quốc gia,
Xét rằng, trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, các dân tộc đã tái xác nhận niềm tin vào những nhân quyền căn bản, vào phẩm cách và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng nam nữ, cùng quyết tâm thúc đẩy tiến bộ xã hội và nâng cao mức sống trong một môi trường tự do hơn,
Xét rằng các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc để phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản,
Xét rằng một quan niệm chung về tự do và nhân quyền là điều tối quan trọng để thực hiện trọn vẹn cam kết ấy.
Vì vậy,
ĐẠI HỘI ĐỒNG LIÊN HIỆP QUỐC

Công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như một tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất cả các dân tộc và quốc gia, sao cho mỗi cá nhân và đoàn thể xã hội luôn nhớ tới bản tuyên ngôn này, nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này bằng học vấn và giáo dục, và bằng những biện pháp lũy tiến trên bình diện quốc gia và quốc tế, bảo đảm sự thừa nhận và thực thi trên toàn cầu các quyền tự do này cho các dân tộc thuộc các quốc gia hội viên hay thuộc các lãnh thỗ bị giám hộ.

Điều 1: Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái.

Điều 2: Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác.
Ngoài ra không được phân biệt về quy chế chính trị, pháp lý hay quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ mà người đó trực thuộc, dù là nước độc lập, bị giám hộ, mất chủ quyền hay bị hạn chế chủ quyền.

Điều 3: Ai cũng có quyền được sống, tự do, và an toàn thân thể.

Điều 4: Không ai có thể bị bắt làm nô lệ hay nô dịch; chế độ nô lệ và sự mua bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm chỉ.

Điều 5: Không ai có thể bị tra tấn hay bị những hình phạt hoặc những đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp nhân phẩm.

Điều 6: Ai cũng có quyền được công nhận là con người trước pháp luật bất cứ tại đâu.

Điều 7: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Mọi người đều được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này.

Điều 8: Ai cũng có quyền yêu cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận.

Điều 9: Không ai có thể bị bắt giữ, giam cầm hay lưu đầy một cách độc đoán.

Điều 10: Ai cũng có quyền, trên căn bản hoàn toàn bình đẳng, được một toà án độc lập và vô tư xét xử một cách công khai và công bằng để phán xử về những quyền lợi và nghiã vụ của mình, hay về những tội trạng hình sự mà mình bị cáo buộc.

Điều 11:
Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ. Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành; mà cũng không bị tuyên phạt một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp.

Điều 12: Không ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hay bị xúc phạm đến danh dự hay thanh danh. Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy.

Điều 13:
Ai cũng có quyền tự do đi lại và cư trú trong quản hạt quốc gia. Ai cũng có quyền rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả quốc gia của mình, và có quyền hồi hương.

Điều 14:
Khi bị đàn áp, ai cũng có quyền tìm nơi tị nạn và được hưởng quyền tị nạn tại các quốc gia khác.
Quyền này không được viện dẫn trong trường hợp sự truy tố thực sự chỉ căn cứ vào những tội trạng không có tính cách chính trị hay vào những hành động trái với mục đích và tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc.

Điều 15:
Ai cũng có quyền có quốc tịch.
Không ai có thể bị tước quốc tịch hay tước quyền thay đổi quốc tịch một cách độc đoán.

Điều 16:
Đến tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình mà không bị ngăn cấm vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền bình đẳng khi kết hôn, trong thời gian hôn thú cũng như khi ly hôn. Hôn thú chỉ có giá trị nếu có sự thuận tình hoàn toàn tự do của những người kết hôn. Gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và phải được xã hội và quốc gia bảo vệ.

Điều 17:
Ai cũng có quyền sở hữu, hoặc riêng tư hoặc hùn hiệp với người khác. Không ai có thể bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán.

Điều 18: Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.

Điều 19: Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.

Điều 20:
Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có tính cách hoà bình. Không ai bị bắt buộc phải gia nhập một hội đoàn.

Điều 21:
Ai cũng có quyền tham gia chính quyền của quốc gia mình, hoặc trực tiếp hoặc qua các đại biểu do mình tự do lựa chọn. Ai cũng có quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước. Ý nguyện của quốc dân phải được coi là căn bản của mọi quyền lực quốc gia; ý nguyện này phải được biểu lộ qua những cuộc tuyển cử có định kỳ và trung thực, theo phương thức phổ thông đầu phiếu kín, hay theo các thủ tục tuyển cử tự do tương tự.

Điều 22: Với tư cách là một thành viên của xã hội, ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội, cũng như có quyền đòi được hưởng những quyền kinh tế, xã hội và văn hoá cần thiết cho nhân phẩm và sự tự do phát huy cá tính của mình, nhờ những nỗ lực quốc gia, sự hợp tác quốc tế, và theo cách tổ chức cùng tài nguyên của quốc gia.

Điều 23:
Ai cũng có quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi và được bảo vệ chống thất nghiệp. Cùng làm việc ngang nhau, mọi người được trả lương ngang nhau, không phân biệt đối xử. Người làm việc được trả lương tương xứng và công bằng, đủ để bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống xứng đáng với nhân phẩm, và nếu cần, sẽ được bổ sung bằng những biện pháp bảo trợ xã hội khác.
Ai cũng có quyền thành lập nghiệp đoàn hay gia nhập nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.

Điều 24: Ai cũng có quyền nghỉ ngơi và giải trí, được hưởng sự hạn định hợp lý số giờ làm việc và những ngày nghĩ định kỳ có trả lương.

Điều 25:
Ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình kể cả thức ăn, quần áo, nhà ở, y tế và những dịch vụ cần thiết; ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tật nguyền, góa bụa, già yếu, hay thiếu phương kế sinh nhai do những hoàn cảnh ngoài ý muốn. Sản phụ và trẻ em được đặc biệt săn sóc và giúp đỡ. Tất cả các con, dầu là chính thức hay ngoại hôn, đều được hưởng bảo trợ xã hội như nhau.

Điều 26:
Ai cũng có quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí ít nhất ở cấp sơ đẳng và căn bản. Giáo dục sơ đẳng có tính cách cưỡng bách. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được phổ cập. Giáo dục cao đẳng phải được phổ cập cho mọi sinh viên trên căn bản bình đẳng, lấy thành tích làm tiêu chuẩn.
Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản; phải đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị giữa các quốc gia, các cộng đồng sắc tộc hay tôn giáo, đồng thời yểm trợ những hoạt động của Liên Hiệp Quốc trong việc duy trì hoà bình. Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn giáo dục cho các con.

Điều 27:
Ai cũng có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, thưởng ngoạn nghệ thuật, được hưởng các tiến bộ khoa học và lợi ích của những tiến bộ ấy. Ai cũng được bảo vệ bởi những quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ những sản phẩm khoa học, văn học hay nghệ thuật của mình.

Điều 28: Ai cũng có quyền được hưởng một trật tự xã hội và trật tự quốc tế trong đó những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này có thể được thực hiện đầy đủ.

Điều 29:
Ai cũng có nghiã vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ. Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn. Trong mọi trường hợp, những quyền tự do này không thể hành xử trái với những mục tiêu và tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc.

Điều 30: Không một điều khoản nào trong Tuyên Ngôn này có thể giải thích để cho phép một quốc gia, một đoàn thể, hay một cá nhân nào được quyền hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu hủy những quyền tự do liệt kê trong Tuyên Ngôn này.
Ngày 10-12-2008 tới, toàn thể nhân loại sẽ kỷ niệm 60 năm ra đời Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền vốn đã được 58 Quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc thông qua bằng Nghị quyết 217 tại Paris năm 1948. Ngày Quốc tế Nhân quyền cũng được đặt ra và cử hành cùng lúc.
Ngày 5/6/1948, Hiệp định Vịnh Hạ Long đã được ký kết giữa chính quyền Thực dân Pháp và Quốc trưởng Bảo Đại cho phép thành lập Quốc gia VN gồm cả ba miền Bắc Trung Nam, nằm trong Liên hiệp Pháp. Ngày 2 tháng 6, Chính phủ Trung ương đã quyết định dùng Cờ Vàng ba sọc đỏ làm Quốc kỳ, y như Đại Nam kỳ thời kháng Pháp 1890-1920. Bằng Hiệp định Hạ Long này và Hiệp định Elysée ngày 8-3-1949, Cộng Hòa Pháp trao trả chủ quyền độc lập cho VN. Đây là bước đầu và nền tảng để thực hiện những điều mà Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền sẽ công bố.

Năm 1958, Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, không cần hỏi ý kiến nhân dân qua Quốc hội, đã ra Công hàm bán nước ngày 14-09, công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Trường Sa của Việt Nam. Sau cuộc Cải cách ruộng đất chấm dứt năm 1956 với máu lệ và tử vong của gần nửa triệu người Việt, với cảnh đời sống nông dân tụt hậu và sản lượng nông nghiệp giảm thiểu, nhà cầm quyền CS đã đưa ra những hình thức tập thể hóa nói trên nhằm khôi phục việc sản xuất lương thực, nhưng nhất là nhằm lấy lại ruộng từ tay các bần nông đã được chia phần, để tích lũy toàn bộ đất đai lương thực vào tay nhà nước hầu chuẩn bị xâm chiếm miền Nam.
Năm 1958 nhà cầm quyền CSVN quyết tâm kết thúc vụ án Nhân văn Giai phẩm với Nghị quyết ngày 6 tháng 1 của Bộ Chính Trị do Trường Chinh ký, nhằm mở hai lớp chỉnh huấn cho gần 500 văn nghệ sĩ "học tập", thực chất là "kiểm thảo tư trưởng". Hầu như toàn bộ trí thức đất Bắc đều bị trù dập cuộc sống, mai một tài năng và hết còn khả năng làm đầu óc cho xã hội.
Thành tích chào mừng Tuyên ngôn dịp tròn thập niên 1968 hiển nhiên là cuộc tổng công kích và thảm sát Tết Mậu Thân, ở Huế có 9776 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn, 3169 ngôi nhà bị hư hỏng nặng, hơn 7000 người dân vô tội đã bỏ mạng vì những kiểu cách hành quyết man rợ nhất.
Đến năm 1978, thành lập "Ban cải tạo công thương nghiệp tư doanh trung ương" theo nghị định số 11-CP ngày 17 tháng giêng của Hội đồng Chính phủ. Những nhà tư sản lớn của Sài Gòn thời đó phần lớn đã di tản ra nước ngoài, thành phố chỉ còn các doanh nghiệp loại vừa và nhỏ như các chủ xưởng thủ công, chủ nhà in, chủ hiệu thuốc… họ bị buộc phải kê khai tài sản, vốn liếng, tiếp đến bị trưng thu, tịch thu, trưng mua rồi bị cấm kinh doanh, phải chuyển qua sản xuất nông nghiệp. Đỗ Mười chỉ huy việc cải tạo bất nhân và ngu xuẩn này, những ông bà chủ chỉ bàng hoàng nhận biết những gì xảy ra khi cửa mở và tổ công tác đặc biệt bất ngờ có mặt, đọc quyết định "kê biên tài sản" của họ. Tài sản bị niêm phong xong, mọi người trong gia đình nhận quyết định đi "xây dựng vùng kinh tế mới". Chính chủ trương ăn cướp tàn bạo này đã làm cho miền Nam khánh kiệt theo miền Bắc, toàn bộ nền kinh tế Việt Nam sụp đổ, khiến không ít người trở nên điên loạn, tự tử và đã buộc hàng trăm ngàn người liều chết vượt biên.

Năm 1978 kết thúc xâm lăng Campuchia. Ngày 21 tháng 12, theo lệnh Liên xô, lấy cớ cứu dân Campuchia khỏi bị diệt chủng, CSVN tung quân đánh đuổi chính quyền Polpot, lập chính quyền bù nhìn Hunsen, để rồi ở lại cả 10 năm để cai trị. Cuộc xâm lăng trắng trợn này đã gieo đau thương cho dân tộc Khmer, gây nỗi căm thù của họ đối ... với dân Việt, tạo cớ cho Trung Cộng xâm chiếm tàn phá nhiều tỉnh biên giới phía Bắc năm 1979, đồng thời khiến Hoa Kỳ thi hành chính sách cấm vận đối với VN.
Thành tích năm 1988 của CSVN đặc biệt. Lần này, tuy chỉ nhắm hai người nhưng đối tượng lại là cả một tập thể hàng mấy triệu. Đó là việc ám sát vị lãnh đạo Công giáo đang cai quản Giáo phận Huế là Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền vào ngày 08 tháng 06 tại bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Vị chức sắc cao cấp này bị giết chỉ vì đã dũng cảm đương đầu với chế độ, dám bênh vực cho quyền của tôn giáo lẫn quyền của con người. Tấm gương của ngài là nguy cơ cho chế độ, vì có thể kéo lôi hàng lãnh đạo mọi tôn giáo và cả tập thể mọi giáo hội. Thứ đến là việc CS trục xuất Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Thuận (sau khi đã giam tù và quản chế ngài 13 năm, từ 15-8-1975) ra khỏi Việt Nam năm 1991. Kiểu cách triệt hạ lãnh đạo tinh thần đầu tàu để khống chế toàn bộ tôn giáo.
Năm 1998 của CSVN chính là việc khẩn trương hoàn thành các Hiệp ước lãnh thổ và lãnh hải sẽ ký kết trước khi thế kỷ 20 chấm dứt, khiến Việt Nam mất gần 1000 km2 đất liền và hơn 10.000 km2 biển cả. Việc ký 2 Hiệp ước đã diễn ra vào sát những ngày cuối năm. Hiệp ước về đất liền vào ngày 30-12-1999 và Hiệp ước về Vịnh Bắc bộ vào ngày 25-12-2000, đang khi nhiều vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng hợp lẽ. Chính sự dễ dãi nhẹ dạ này của Lê Khả Phiêu cộng với sự toa rập của bộ Chính trị đã, đang và sẽ bị nhân dân lẫn lịch sử kết án tội "bán đất, dâng biển cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc".
Thành tích chào mừng" kỷ niệm Tuyên ngôn năm 2008 trước hết chính là "Cuộc diễn hành kỷ niệm 40 năm tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân" sáng ngày 1 tháng 2 tại dinh Thống nhất (dinh Độc lập cũ) ở Sài Gòn, mà thực chất là việc các lãnh đạo CS cùng đồng đảng trâng tráo nâng ly ăn mừng một cuộc thất trận nhục nhã, một cuộc tàn sát man rợ, một màn lừa dối và một sự chà đạp những giá trị tinh thần của dân tộc. Tiếp đến, rải dài trong năm là bao cuộc đàn áp nông dân khiếu kiện đòi ruộng vườn, công nhân đình công đòi đủ lương, tín đồ cầu nguyện đòi cơ sở, sinh viên biểu tình đòi đất tổ, ký giả viết báo đòi công lý, các nhà dân chủ giăng biểu ngữ đòi nhân quyền.
Đặc biệt hơn hết là vụ xử án 8 giáo dân Thái Hà hôm 08-12 tới, áp ngày kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn, về tội gọi là "gây rối trật tự công cộng và hủy hoại tài sản" bởi chính một chế độ đang cướp bóc tài nguyên quốc gia, tài sản tôn giáo và của cải nhân dân, bởi chính một tập đoàn lãnh đạo đang đẩy đất nước vào cơn suy thoái mọi mặt, xã hội vào cơn khủng hoảng trăm bề và dân tình vào cơn hỗn loạn thống khổ triền miên.
Đọc lại từ đầu đến cuối Tuyên ngôn Nhân quyền 1948 rồi nhìn lại Việt Nam từ hơn 60 năm qua, thật là cả một trời một vực. Không có điều khoản nào trong 30 điều khoản mà Cộng đảng VN (và mọi Cộng đảng khác) lại không vi phạm ở một mức độ.
Hồ Chí Minh là người Tàu

Một cuốn sách đang gây chấn động trong giới nghiên cứu lịch sử, mang tựa đề Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo, tạm dịch là Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh, do tác giả Giáo sư Hồ Tuấn Hùng tại Đài Loan dày công nghiên cứu trong nhiều năm qua, vừa được Nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa phát hành tại Đài Loan vào ngày 1 tháng 11 vừa qua.

Giáo sư Hùng sanh năm 1949, tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan, có kinh nghiệm giáo chức 30 năm đồng thời ông còn là viên chức cao cấp Giáo Dục Hành Chính. Theo Giáo sư Hồ Tuấn Hùng, Hồ Chí Minh xuất thân là người dân tộc Hồ trong nhóm Khách Gia hay Hakka, người Việt ở Bạc Liêu gọi là Hẹ, tại huyện Miên Lật, địa khu Đồng La, Đài Loan. Lời giới thiệu sách trên website của Nhà sách Press Store viết rằng mặc dù thời gian đã vào Thiên niên kỷ thứ 2, phương tiện truyền thông và công nghệ hiện đại đã phát triển mạnh, nhưng trong 40 năm qua, gia đình, lịch sử, khả năng ngôn ngữ, lý tưởng cách mạng, thực tế hôn nhân, thậm chí những bí ẩn của sự sống và cái chết của Hồ Chí Minh vẫn bị Đảng Cộng sản Việt Nam che giấu như bị khóa trong hộp đen.

Giáo sư Hùng nhiều lần khẳng định rằng, ông Nguyễn Ái Quốc đã bệnh vong vào năm 1932, từ năm 1933 và người đội lốt cái tên Nguyễn Ai Quốc sau này là Hồ Chí Minh, chính là một người Tàu có tên là Hồ Tập Chương, và là một người cùng dòng tộc với Giáo sư Hồ Tuấn Hùng.

Công bố của Giáo sư Hồ Tuấn Hùng quả là một quả bom tấn gây chấn động mạnh trên thế giới và cộng đồng người Việt, hoàn toàn ngược lại với những gì mà người Việt Nam được biết về Hồ Chí Minh qua các chương trình giáo dục của sách giáo khoa giảng dạy trong nhà trường và báo chí, sách vở xuất bản tại Việt Nam.

Sự việc này là rất quan trọng, vì một lãnh tụ được Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước suy tôn là Cha già dân tộc Việt Nam, đùng một cái Hồ Chí Minh lại trở thành người Tàu. Tác giả chứng minh rõ ràng bằng gia phả và bằng nhiều tài liệu khác trong sách.

Cuốn sách này đã xuất bản và lưu hành rộng rãi từ ngày 1 tháng 11 tính đến nay đã 30 ngày, nhưng chưa thấy phía nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam lên tiếng gì về việc này.

Giáo dân công giáo Sài Gòn đã tham dự cuộc cầu nguyện

Hơn 5,000 giáo dân Công giáo ở Sài Gòn đã tham dự cuộc cầu nguyện hiệp thông tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn chiều tối ngày Chủ Nhật 30/11/2008 để phản đối phiên tòa vào ngày 8/12/2008 tới đây mà nhà cầm quyền CSVN sẽ xử 8 giáo dân tham gia tích cực vào cuộc vận động đòi chế độ Hà Nội trả lại tài sản cho nhà dòng đã bị họ cướp đoạt suốt nhiều chục năm qua. Phiên tòa trước đây dự trù ngày mùng 5 rồi dời lại ba ngày sau với cáo buộc “hủy hoại tài sản và gây rối trật tự công cộng”.

Các giáo dân bị bắt từ hồi Tháng Tám vừa qua sau khi giáo dân phá kẽm gai và tường rào vào trong khu đất của Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà mà chế độ Hà Nội cưỡng đoạt suốt nhiều chục năm qua. Diện tích chung của cả khu hơn 6ha đã bị nhà cầm quyền cưa làm nhiều miếng, sử dụng làm cơ quan hành chính công quyền, bệnh viện và cả khai thác thương mại. Một phần của tài sản này được giao cho “công ty may Chiến Thắng” sử dụng nhưng họ làm ăn thua lỗ, bỏ hoang.
Khi hay tin khu đất và phần tài sản này đang được bán sang tay để cưa nhỏ và phân lô xây nhà bán cho cán bộ, giáo xứ và nhà dòng Thái Hà đã phản đối kịch liệt bằng các cuộc cầu nguyện cùng với văn thư đòi trả lại tài sản mà nhà dòng từng đòi nhiều năm qua. Giáo xứ và Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà đã trưng dẫn các tài liệu địa chính và văn bản pháp lý để yêu cầu nhà nước trả lại phần đất đang bỏ hoang.
Mất kiên nhẫn trước thái độ ngang ngạnh của nhà cầm quyền, một số giáo dân, vào giữa tháng 8/2008 đã cắt kẽm gai, phá tường rào để vào bên trong khu đất, rước tượng Ðức Mẹ, Thánh Giá đến để cầu nguyện hàng ngày. Phản ứng lại, sau khi đã bắt giữ một số giáo dân, nhà cầm quyền CSVN đã vội vã biến khu đất thành “công viên”, một cách xác định cướp được thì cướp luôn chứ không trả lại.
Dù khu đất đã được biến thành công viên, mọi dấu vết cũ đều đã bị phá bỏ và san ủi không còn gì, 8 giáo dân Công giáo vẫn bị lôi ra tòa với cáo buộc “hủy hoại tài sản và gây rối trật tự công cộng”. Những anh chị em này vô tội, vô tội theo lương tâm của mỗi người và vô tội kể cả về mặt pháp lý, nhưng vẫn bị truy tố và xét xử.
Linh mục Phạm Trung Thành, giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam , viết trong bức thư gửi anh em Dòng Chúa Cứu Thế hôm Thứ Bảy 29/11/2008. “Trong thời điểm này, chúng ta cùng hiệp thông và cầu nguyện cho những anh chị em phải chịu oan sai. Tám Mối Phúc là lời mời gọi chúng ta cùng với các anh chị em đó chấp nhận mọi nghịch cảnh và phó thác cho Thiên Chúa để Người làm cho mọi sự nên ích lợi cho những ai yêu mến Người. Mỗi cộng đoàn anh em hãy thiết tha cầu nguyện cho các anh chị em này, cầu nguyện cho các nhà cầm quyền đất nước, cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta.”
Hôm Thứ Bảy 29/11/2008, hàng ngàn sinh viên đại học ở Hà Nội cũng đã tham dự một buổi thắp nến cầu nguyện hiệp thông dưới sự giám sát chặt chẽ của hệ thống công an CSVN. Trong buổi thắp nến, sinh viên đã trình diễn một vở kịch diễn tả lại những khổ nạn mà các thánh tử đạo tại Việt Nam đã phải chịu đựng trong cuộc cấm đạo hồi các thế kỷ trước. Tuy chỉ là những vi phạm có tính cách hành chính và rất nhỏ nhưng đã bị chế độ Hà Nội làm lớn chuyện cho thấy CSVN đi từ hình sự hóa đến chính trị hóa vụ việc không ngoài mục đích khủng bố tinh thần giáo dân Công giáo Việt Nam.
Tất cả các tòa án của Việt Nam đều do Ðảng nắm trong tay và chi phối vì thế, dù luật sư có giỏi đến đâu cũng không thể vượt qua được quyền lực mafia này để bảo vệ cho công lý. Phiên tòa xử các giáo dân Thái Hà sắp tới sẽ không có công lý, không có sự thật. Chắc chắn sẽ có nhiều trò của hệ thống tòa án CSVN khi xử vụ án này. Ngày 28/11/2008 vừa qua, 13 linh mục và tu sĩ ở Hà Nội đã gửi “đơn đề nghị” tới “tòa án nhân dân” quận Ðống Ða cho hay họ muốn được tham dự phiên tòa xét xử 8 giáo dân, căn cứ trên điều 18 của Bộ luật Hình Sự Tố Tụng CSVN về nguyên tắc xét xử công khai.